Lịch sử Việt-Mỹ
VNCH, kinh nghiệm kiến quốc: Đối phó với thay đổi và chiến tranh, xây dựng nền tảng cho tăng trưởng
Published on
Lời toà soạn: Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ xin giới thiệu một tư liệu tổng quan về chính sách kinh tế và việc thực thi chính sách thời Việt Nam Cộng Hoà, qua hồi tưởng của một người tham gia xây dựng và thực thi chính sách đó, Tiến sỹ Nguyễn Đức Cường, cựu Tổng trưởng Bộ Thương mại và Kỹ nghệ VNCH. Đây là bài phát biểu của tác giả tại hội thảo về lịch sử VNCH năm 2016 ở University of California at Berkeley. Các bài phát biểu trong hội thảo này sau đó được in thành sách “The Republic of Vietnam, 1955-1975: Vietnamese Perspectives on Nation Building” do Đại học Cornell xuất bản năm 2019. Bản dịch tiếng Việt được Văn Học xuất bản năm 2022 tại Mỹ. Bản dịch dưới đây được trích từ cuốn sách tiếng Việt nói trên.
Bài liên quan: Góc nhìn mới về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa: kinh nghiệm kiến quốc
Nguyễn Đức Cường tốt nghiệp cử nhân ngành Kỹ thuật điện năm 1963 hạng xuất sắc (Summa Cum Laude) tại Đại học New Hampshire, sau đó tốt nghiệp thạc sĩ Kỹ thuật điện và hoàn tất những lớp cần thiết để lấy bằng tiến sĩ tại Viện Kỹ thuật Massachusetts (Massachusetts Institute of Technology). Ông Cường đã có một sự nghiệp lâu dài trong cả hai lĩnh vực chính phủ và doanh nghiệp. Sự nghiệp mười năm của ông với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bắt đầu vào tháng Sáu năm 1965. Ông được thăng chức Thứ trưởng Bộ Thương mại năm 1970 và Tổng trưởng Bộ Thương mại và Kỹ nghệ năm 1973. Ông từ chức vào tháng 11 năm 1974. Sau tháng Tư năm 1975, ông định cư tại Mỹ và bắt đầu làm việc trong ngành tài chính với Tập đoàn Exxon, có trụ sở tại New York. Sau 29 năm phục vụ cho Exxon Mobil Corporation và các chi nhánh của tập đoàn này, ông về hưu và mở một nhà hàng Việt Nam ở khu vực Silicon Valley, chuyên về phở, món ăn yêu thích của ông.
Tôi trở về Sài Gòn vào mùa hè năm 1965 sau sáu năm học đại học và cao học ngành Kỹ thuật điện ở Mỹ. Tôi bắt đầu làm kỹ sư phụ trách dự án tại Trung tâm Phát triển Kỹ nghệ, và một năm sau đó chuyển sang Bộ Kinh tế. Tôi bỏ nghề kỹ sư và chuyển sang làm về kinh tế và tài chính, một lĩnh vực mà tôi chưa bao giờ được đào tạo ở trường, nhưng tôi không bao giờ hối tiếc. Dù rằng phải học hỏi thêm về kinh tế và tài chính trong mười năm phục vụ chính phủ, tôi nhận thấy rằng kiến thức về kỹ thuật hóa ra rất hữu ích cho công việc của tôi vì nó hướng nhiều vào phương pháp định lượng và mục tiêu giải quyết các vấn đề thực tế. Tuy nhiên, quan trọng hơn là những người tôi đã gặp trong thời kỳ này cùng với các sự kiện ngẫu nhiên đã giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp công chức, từ chuyên viên qua Phụ tá Tổng trưởng Thương mại, rồi cuối cùng đến chức Tổng trưởng Bộ Thương mại và Kỹ nghệ vào năm 1973.
Trong 15 năm đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, từ năm 1955 đến năm 1970, chúng tôi thường xuyên phải đối đầu với sự cố và phải uyển chuyển để tránh những va chạm đáng tiếc. Cường độ chiến tranh ngày càng tăng; sự tràn ngập của quân đội Mỹ và ngoại viện đã gây áp lực đáng kể trên các nguồn lực ít ỏi trong nước. Kết quả là lạm phát cao gần đến mức không kiềm chế nổi và nạn chợ đen đồng đô la rất phồn thịnh.
Nhưng đến năm 1970, Bộ Kinh tế đã có thể đưa ra những chính sách quan trọng và thiết lập một khung pháp lý mới để phát triển nền kinh tế, đặc biệt là trong hai lãnh vực nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. Chúng tôi đã cải cách tỷ giá hối suất, lãi suất, và thuế má, cũng như phát triển tổ chức mới và củng cố tổ chức hiện hữu. Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một nền kinh tế thị trường dựa vào khu vực tư nhân và bốn trụ cột là luật pháp, thể chế, chính sách, và phương pháp quản lý hữu hiệu, để đáp ứng với hai thách thức là cuộc chiến tranh không ngừng và tình hình suy giảm viện trợ nước ngoài.
Chương này nhằm cung cấp một tầm nhìn bao quát về phát triển kinh tế dưới hai nền Cộng hòa. Cần có tầm nhìn xa để hiểu được những thành tựu và thất bại của VNCH trong hơn hai thập kỷ. Một số hoạt động do các đồng nghiệp của tôi chịu trách nhiệm trực tiếp lúc bấy giờ, họ sẽ kể lại với nhiều chi tiết hơn trong các chương kế tiếp. Tôi sẽ đi sâu hơn về các hoạt động mà chính tôi đã tham gia từ giữa thập niên 1960.
Phát triển kinh tế ở Việt Nam Cộng Hòa
Chế độ Cộng hòa bắt đầu với nhiều hy vọng sau khoảng 80 năm Pháp thuộc. Không khó để dự đoán những khó khăn ban đầu như: lòng trung thành của quân đội với chính phủ mới, kho bạc trống rỗng, những xung đột nội bộ, nổi dậy của các phe phái vũ trang khác nhau, và hơn 800.000 người di cư từ miền Bắc vào cần phải giải quyết. Nhờ sự lãnh đạo vững chắc của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm và cũng nhờ viện trợ Mỹ nên những khó khăn này đã được chế ngự.
Giáo sư Vũ Quốc Thúc đã thành công thương lượng việc chuyển giao thẩm quyền về tiền tệ và tài chính từ chính phủ Pháp sang quốc gia mới. Vào thời điểm đó đất nước vừa thoát khỏi ách thực dân và kiệt quệ sau nhiều năm chiến tranh. Thu nhập bình quân đầu người một năm ước tính khoảng 75 đô la Mỹ vào năm 1955. Nông nghiệp chiếm khoảng 25% nền kinh tế, tiếp theo là khu vực dịch vụ của chính phủ (dân sự và quân sự) với 35%. Ngành công nghiệp không đáng kể. Xuất cảng gồm cao su và lúa gạo đạt khoảng 80 triệu USD so với nhập cảng 250 triệu USD vào năm 1955. Tình trạng mất thăng bằng cán cân thương mại này sẽ tiếp tục xấu đi khi các hoạt động quân sự leo thang.
Cả hai nền Cộng hòa phải dồn hầu hết nỗ lực cho các hoạt động quân sự, bắt đầu từ đối phó với chiến tranh du kích và sau đó là chiến tranh quy ước tổng lực, với hơn 1,5 triệu quân đội Quốc gia. Nếu không có viện trợ nước ngoài, đây là một gánh nặng không thể chịu được cho một quốc gia nghèo với 17 triệu dân. Tuy nhiên, chúng tôi đã đạt được một mức độ ổn định và tăng trưởng kinh tế trong những năm đầu của nền Cộng hòa nhờ vào sự trợ giúp đáng kể của Mỹ. Chỉ riêng trong tài khoản năm đầu tiên, viện trợ từ Hoa Kỳ lên tới 320 triệu đô la, khoảng 35% tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Phần lớn số tiền này dùng cho việc định cư người tị nạn từ miền Bắc.
Trong thập niên đầu tiên (1955-1965), viện trợ kinh tế Mỹ đạt mức trung bình 210 triệu đô la mỗi năm, hay khoảng 15% tổng sản phẩm quốc gia. Khi các hoạt động quân sự gia tăng trong mười năm kế tiếp, viện trợ kinh tế bắt đầu tăng lên đáng kể, trung bình 620 triệu đô la Mỹ mỗi năm, tương đương khoảng 20% tổng sản phẩm quốc gia. Trong suốt 2 thập niên, viện trợ kinh tế tổng cộng lên đến 8,5 tỷ đô la.[1]
Viện trợ quân sự của Mỹ còn nhiều hơn. Hoa Kỳ đã hỗ trợ tất cả khoảng 1,5 tỷ đô la cho chính phủ Pháp trong chín năm chiến tranh Đông Dương khi Pháp chống lại Việt Minh.[2 ] Khi quân đội Mỹ bắt đầu vào miền Nam năm 1965, số lượng viện trợ quân sự cũng tăng lên, trung bình 1,5 tỷ đô la mỗi năm trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1975, với tổng số là 16,8 tỷ đô la.
Mục đích của số tiền viện trợ nước ngoài lớn lao là đem lại sự ổn định kinh tế trong thời gian ngắn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch chính trị và quân sự của chính phủ. Nhưng không có cách nào để đất nước thoát khỏi sự lệ thuộc vào viện trợ
nước ngoài trong khi chiến tranh vẫn tiếp diễn. Mặc dù như vậy, trong năm năm cuối của chiến tranh chính phủ của chúng tôi đã thực hiện một số chương trình quan trọng để tạo cơ sở cho đầu tư và tăng trưởng dài hạn.
Thập kỷ đầu tiên, 1955-1965
Việt Nam được thừa hưởng từ Pháp một nền kinh tế hoạt động khá tốt. Không có cảnh đổ xô đến ngân hàng để rút tiền, không có lạm phát bất trị mặc dù kho bạc trống rỗng. Hối suất đồng bạc vẫn cố định và các giao dịch được chính phủ kiểm soát chặt chẽ. Tuy nước Cộng hòa non trẻ bắt đầu với một kho bạc rỗng, viện trợ của Mỹ sớm chảy vào với 320 triệu đô la Mỹ trong tài khóa năm 1954 như trên đã trích dẫn.
Biện pháp đáng chú ý đầu tiên của chính phủ mới là việc chuyển giao thẩm quyền tài chính và tiền tệ từ Pháp sang Việt Nam. Giáo sư Vũ Quốc Thúc đã tham dự Hội nghị Bốn bên ở Paris vào cuối năm 1954 để thảo luận và đưa ra các khuyến nghị về tài chính và tiền tệ liên quan đến ba nước Đông Dương và Pháp. Phái đoàn đưa ra một số khuyến cáo vào ngày 30 tháng 12. Chúng đã được chấp thuận và ban hành ngay sau ngày đó. Công việc chuyển giao diễn ra một cách êm đẹp và hữu hiệu, mở ra phương hướng cho đường lối của chính phủ về tài chánh và kinh tế trong những năm tới: dựa trên sự tôn trọng luật lệ, tôn trọng quyền tư hữu, và nguyên tắc liên tục của luật pháp trong quá trình chuyển tiếp.
Người Pháp đã đưa ngân hàng hiện đại vào Việt Nam để phục vụ lợi ích kinh tế của họ. Hệ thống này có phần lỗi thời vì dựa trên các nguyên tắc và quy định cũ. Tất cả mọi vấn đề đều phải báo cáo trực tiếp về cho Bộ Tài chính ở Paris. Các ngân hàng tư nhân lớn lại thuộc chủ nước ngoài. Hoạt động của họ tập trung ở khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn và hoàn toàn không phục vụ nông thôn.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1955, việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (NHQG) đã mở ra một kỷ nguyên ngân hàng mới. Vũ Quốc Thúc là Thống đốc đầu tiên, và ông sớm thành lập Ngân hàng Việt Nam Thương tín (VNTT), chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách tín dụng và ngân hàng của Bộ Tài chính và Ngân hàng Quốc gia, và tuân theo các thủ tục nhập cảng phục vụ cho chương trình viện trợ của Mỹ. Nghĩ cho tận cùng thì các ngân hàng tư nhân ở Sài Gòn thời đó không được trang bị để đối phó với những thủ tục phức tạp của chương trình ngoại viện Hoa Kỳ.
Ảnh hưởng và uy tín của VNTT tăng lên nhiều dưới sự lãnh đạo năng động của Giám đốc Nguyễn Hữu Hanh, người tốt nghiệp trường Hautes études commerciales (HEC) nổi tiếng của Pháp. Ông Nguyễn Hữu Hanh đã có thời gian làm giám đốc của cả NHQG và VNTT với cấp phó là ông Phạm Kim Ngọc. VNTT trở thành ngân hàng được lựa chọn cho các nhà nhập cảng địa phương, dẫn đầu về
chi phí, khả năng tài chính, kỹ thuật và chất lượng dịch vụ. Và như vậy, ngân hàng thương mại hiện đại ở Việt Nam đã ra đời. Nó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong lãnh vực kinh tế trong những năm tới, để đón nhận nguồn tiền viện trợ của Mỹ.
Việc định giá quá cao cho đồng bạc Việt Nam gây ra khó khăn thường xuyên cho chúng tôi. Vấn đề này không bao giờ được giải quyết hoàn toàn vì về mặt chính trị, để đồng tiền mất giá luôn luôn là một quyết định rất khó khăn và không Tổng trưởng Kinh tế hay Tài chính nào muốn chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, đến năm 1962, sự khác biệt giữa hối suất giá thị trường chợ đen là 80 đồng cho 1 đô la Mỹ và hối suất chính thức là 35 đồng cho mỗi đô la, đã trở nên quá lớn nên không thể bỏ qua. Để tránh gây ra phản ứng tiêu cực nếu dùng từ “phá giá đồng tiền”, việc điều chỉnh giá hối suất được ngụy trang dưới dạng Thuế phân suất quân bình, biến đổi một cách hiệu quả hối suất chính thức từ 35 đến 60 đồng mỗi đô la cho tất cả các dịch vụ thương mại.
Trong khi ấ y Tổng nha Kế hoạch được thành lập dưới sự quản trị trực tiếp của Văn phòng Tổng thống để thêm quyền thế và ảnh hưởng. Tuy nhiên, nha này không có thẩm quyền trực tiếp đối với các xí nghiệp quốc doanh, là di sản của chánh phủ Pháp, chẳng hạn như Nhà máy Xi măng Hà tiên, Công ty Chế biến đường mía, Công ty Giấy báo, và Công ty Khoáng sản An hòa-Nông sơn. Chánh phủ đã bổ sung vài khoản đầu tư nhỏ để nâng cấp các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, vì thiếu ngân sách và vì có những vấn đề khẩn cấp khác, nên các công ty quốc doanh nầy không nhận được khoản đầu tư đáng kể nào.
Mặt khác, chúng tôi đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực phát triển tài nguyên nhân lực, đặc biệt là giáo dục cấp đại học, đào tạo các nhà lãnh đạo tương lai và trong lĩnh vực kỹ thuật. Nhiều cơ sở giáo dục bậc cao được thành lập và liên tục được nâng cấp. Một ví dụ là trường nông nghiệp 2 năm ở Blao. Được thành lập vào năm 1955, trong vòng chưa đầy hai thập niên, trường này được nâng cấp liên tục và cuối cùng được đạt đến bậc đại học vào năm 1974. Có nhiều ví dụ khác như Cao đẳng Thương mại, Cao đẳng Phú thọ, Học viện Quốc gia Hành chánh, Cao đẳng Sư phạm, Học viện Quân sự cũng được nâng cấp lên đại học quân sự bốn năm.
Học bổng do Chương trình Fulbright, Chương trình Colombo, Quỹ Rockefeller hay chương trình được USAID tài trợ, đã đẩy mạnh việc đào tạo các nhà lãnh đạo tương lai tại các trường đại học ở nước ngoài. Quả thật, có nhiều tác giả trong sách này đã hưởng được lợi của những chương trình này. Ước tính có khoảng 350 sinh viên đã học tại Hoa Kỳ và quay trở lại Việt Nam để làm việc cho chính phủ hoặc trong khu vực tư nhân.
Một thách thức khác là tái định cư cho hơn 800.000 người di cư từ miền Bắc, tương đương với tám phần trăm tổng dân số miền Nam tại thời điểm đó. Thành công trong việc này đã mang lại cho miền Nam một nguồn nhân lực sản xuất ngay lập tức và đáng kể. Nhìn chung, không có trại tị nạn và không có nhân lực nhàn rỗi nào ngồi chờ đợi hưởng trợ cấp của chính phủ.
Chi phí của chương trình tái định cư này ước tính khoảng 100 triệu đô la và được Mỹ tài trợ trực tiếp, bao gồm 34 triệu đô la được chuyển thẳng vào Ngân hàng Trung ương để tài trợ cho các khoản thanh toán cá nhân cho mỗi gia đình di cư đặt chân vào miền Nam. Gia đình năm người của tôi nhận được 25 đô la mỗi người sau khi chúng tôi đến bến tàu Sài Gòn. Phần còn lại của tài trợ bao gồm chi phí đi lại bằng đường hàng không và đường biển do chính phủ Hoa Kỳ trả cho một số nhà thầu.
Những thách thức khác tỏ ra khó khăn hơn để giải quyết. Nỗ lực đầu tiên trong cải cách ruộng đất vào năm 1956 đã đạt được thành công rất hạn chế. Việc tiến hành chương trình này quá tập trung và hệ thống quản trị của nó rất nặng nề. Hầu hết các công việc được thực hiện thủ công và do đó rất chậm. Tệ hơn nữa, các chủ đất lớn được phép giữ 150 ha mỗi người, và kết quả là 80% những cánh đồng lúa tốt nhất vẫn nằm trong tay của họ. Nông dân chỉ có thể mua đất bằng các khoản vay dài hạn, và tỷ lệ không trả được nợ rất cao. Khi Tổng thống Diệm bị lật đổ vào năm 1963, chương trình bị đình trệ. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đạt được mức tăng trưởng kinh tế thực tế là 8,5% vào năm 1958 và 9,6% vào năm 1959, một thành tựu khá lớn đối với một quốc gia mới độc lập phải đối mặt với một cuộc nổi loạn võ trang.
Cần lưu ý rằng đồng thời với chương trình cải cách ruộng đất của chính phủ VNCH, có một chương trình tương tự do cộng sản thực hiện trong khu lãnh thổ do họ kiểm soát. Họ phân phối đất miễn phí cho những người nông dân đang thuê đất, mặc dù không hoặc hiếm khi cấp giấy tờ sở hữu. Điều này làm cho vấn đề khá phức tạp sau khi quân đội của chúng ta giành lại quyền kiểm soát và chủ sở hữu vắng mặt đã cố gắng đòi tiền thuê. Cuối cùng, chúng tôi đã thực hiện một chiến dịch cải cách ruộng đất mới, Chương trình Người Cày Có Ruộng. Chương trình này bắt đầu từ năm 1970 đã cách mạng hóa kinh tế nông thôn (xem chương 4 trong tập này).
Trong khi đó, quá trình chuyển đổi từ chính quyền Pháp sang cộng sản ở Bắc Việt tương đối suông sẻ. Chính quyền cộng sản đã kiểm soát hầu hết miền Bắc trước khi tiếp quản, với ảnh hưởng của Pháp tập trung xung quanh hành lang đồng bằng Hà Nội-sông Hồng. Họ đã có Ngân hàng Trung ương của riêng mình và bắt đầu phát hành tiền tệ từ năm 1946. Người dân buộc phải đổi tiền của Pháp lấy tiền Hồ Chí Minh hoặc vứt bỏ tiền Hồ Chí Minh đi nếu họ di cư vào Nam năm 1954.
Nền kinh tế miền Bắc Việt Nam ở trong tình trạng tồi tệ với mức sống của dân chúng rất thấp (nguyên văn: “at subsistance level”). Sản xuất nông nghiệp sụt giảm mạnh do ảnh hưởng tai hại của cuộc cải cách ruộng đất trong những năm 1954-56 với hàng ngàn nông dân vô tội bị trừng trị và xử tử. Nhà nước thực hiện một chương trình cải tổ kinh tế rộng lớn (nguyên văn: “sweeping”), thay thế hệ thống thị trường bằng nền kinh tế kế hoạch tập trung và tập thể hóa hoặc loại bỏ kinh doanh tư nhân. Đến cuối những năm 1960, nhà nước kiểm soát phần lớn thương mại liên quan đến nông sản và sản phẩm công nghiệp. Theo lời của một chuyên gia, chính sách này đã dẫn đến sản xuất nông nghiệp suy thoái, kinh tế đình trệ, và nạn đói kinh niên tại Bắc Việt trong hai thập kỷ sau đó.[3] Mặc dù vậy, chính phủ Hà Nội vẫn lên kế hoạch thúc đẩy cuộc cách mạng cộng sản ở miền Nam, với sự hỗ trợ kinh tế và quân sự đáng kể từ Trung Quốc và Nga Sô.
Quay trở lại miền Nam, thập kỷ đầu tiên của VNCH có thể được mô tả như một giai đoạn chuyển tiếp, từ chế độ thực dân sang một nền kinh tế độc lập có nhiều hứa hẹn. Trong thời gian này, Nam Việt Nam đã có nhiều năm tương đối hòa bình và thịnh vượng, và đạt được mức tăng trưởng kinh tế khá tốt ở mức 6% mỗi năm trong khoảng thời gian từ 1955 đến 1962.[4] Nhóm kỹ sư, nhà giáo dục, nhà khoa học và nhà kinh tế đầu tiên của chúng tôi trở về nước sau khi được đào tạo đã hết sức nhiệt thành và ấp ủ nhiều hy vọng. Và mặc dù tình hình bất ổn sau cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm, vẫn có lý do để tin rằng chúng tôi có thể đi theo bước chân của Hàn Quốc, Đài Loan, hoặc Singapore.
Thập kỷ thứ hai, 1965-1975
Trong thời kỳ này, chúng tôi phải đối mặt với sự thay đổi liên tục, thường là do các yếu tố hoặc sự kiện ngoài tầm kiểm soát hoặc thậm chí hiểu biết của chúng tôi. Ba ngàn lính thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà nẵng vào tháng Ba năm 1965, mở đường cho hơn nửa triệu lính Mỹ theo sau. Thực sự là đất nước chúng tôi không có khả năng để tiếp nhận số quân lính và thiết bị đổ vào một cách bất ngờ và ồ ạt như vậy.
Gần như ngay lập tức, chúng tôi phải đối mặt với một số thách thức nghiêm trọng, bao gồm lạm phát lên tới 63% vào năm 1966; các hải cảng thường xuyên tắc nghẽn; các loại hàng thiết yếu như gạo và vật liệu xây cất bị thiếu hụt; và nạn đầu cơ tiền tệ và hàng hóa lan tràn trên thị trường chợ đen mới mọc lên.
Tình trạng tắc nghẽn tại thương cảng Sài Gòn đã được nhắc đến trong nhiều báo cáo của Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker. Sài Gòn là cửa khẩu nhập cảng chính của chúng tôi và được thiết kế để nhận tổng khối lượng thương mại khoảng 330 triệu đô la mỗi năm. Đến năm 1966, con số này đã tăng gấp đôi do sự gia tăng nhanh chóng của viện trợ thương mại Mỹ. Về trọng tải, nó có thể quán xuyến 100.000 tấn hàng nhập cảng mỗi năm, nhưng “vào năm 1967, một triệu tấn hàng tiếp liệu đổ vào mỗi tháng để hỗ trợ lực lượng của Mỹ.”5 Rõ ràng năng lực của thương cảng này không đủ sức để tiếp nhận số lượng hàng khổng lồ đó.
Tình trạng tắc nghẽn thương cảng đã hạn chế nghiêm trọng dòng vận chuyển hàng hóa nhập khẩu, dẫn đến tình trạng khan hiếm trong khi giá cả và lạm phát tăng vọt lên. Nó cũng góp phần vào hình ảnh của một chính quyền thiếu khả năng khi tình trạng tham nhũng nở rộ tại các thương cảng và khi không thể tránh khỏi nhiều loại hàng hóa xa xỉ miễn thuế – được nhập khẩu để dành riêng cho lính Mỹ sử dụng – được tuồn ra tiêu thụ ở chợ đen Sài Gòn.
Chúng tôi đã phải bằng mọi giá tìm cách giảm bớt tình trạng thương cảng bị tắc nghẽn. Quân đoàn Kỹ sư Công binh Hoa Kỳ được huy động khẩn cấp để vét sâu lòng sông và xây dựng đường, cầu, và thậm chí cả cảng nước sâu mới ở Sài Gòn, Vịnh Cam Ranh, và những nơi khác. Họ dựng lên các kho nhiên liệu, nhà kho, bãi đáp trực thăng, và sân bay rải rác khắp các tỉnh để chứa máy bay phản lực. Ngay cả những vùng xa xôi của đất nước cũng được kết nối với một mạng lưới thông tin liên lạc hiện đại. Dù vậy phải mất hơn ba năm để chấm dứt tình trạng tắc nghẽn cảng. Được xây dựng theo tiêu chuẩn quân sự rất cao bất kể chi phí tốn kém, hạ tầng cơ sở này sẽ trở nên rất có giá trị trong quá trình tái thiết hậu chiến.
Tại Bộ Kinh tế, chúng tôi sớm phải đối mặt với một tình trạng tồn đọng đáng kể của các hồ sơ xin nhập cảng. Đây không phải là vấn đề nhỏ: chúng tôi rất cần hàng nhập cảng vào nhanh để giảm bớt tình trạng thiếu hụt gây ra lạm phát và cũng để giảm thâm hụt ngân sách thông qua việc sử dụng Quỹ đối giá bằng tiền Việt Nam mà các công ty nhập cảng trả để mua đô la Mỹ dùng vào tài trợ dịch vụ nhập cảng hàng hóa.
Mức gia tăng đáng kể của ngoại viện cùng với việc chúng tôi không quen thuộc với các thủ tục của Mỹ là nguyên nhân dẫn tới số lượng hồ sơ bị tồn đọng trong giai đoạn chờ cứu xét để cấp phép. Các nhà nhập cảng của chúng tôi, đã quen với Bộ Luật thuế quan Brussels của Châu Âu, không biết các mã số thuế quan của Chương trình Nhập cảng Thương mại Mỹ. Là một chuyên viên tại Tổng nha ngoại thương của Bộ Kinh tế, tôi đã chứng kiến sự hỗn loạn vào mùa hè năm 1967. Nhờ biết tiếng Anh tôi giúp được nhiều việc. Trong quá trình đó, tôi biết nhiều về những khó khăn gặp phải khi nhập cảng một khối lượng viện trợ to lớn như vậy, cũng như về những rắc rối do Quốc hội Hoa Kỳ quy định. Phái đoàn USAID chỉ định một nhân viên toàn thời gian chỉ để giúp chúng tôi giải quyết mau các thủ tục giấy tờ và đảm bảo cho chúng tôi tuân thủ các điều lệ và thủ tục của Chương trình Viện trợ Hoa Kỳ.
Nhưng tắc nghẽn giấy phép nhập khẩu chỉ là triệu chứng của một vấn đề lớn hơn. Để phù hợp với truyền thống quản lý kinh tế và tài chính của Pháp, kiểm soát cấp phép tại Việt Nam luôn là một công cụ của Bộ Kinh tế. Nhưng trong một môi trường với tiền đồng bị định giá quá cao và lạm phát tăng vọt làm cho ngân khoản ngoại tệ vốn đã hạn chế càng hạn chế hơn, nhu cầu của người tiêu thụ tăng hay giảm do sự kết hợp giữa thương nhân đầu cơ thao túng và chính sách không phù hợp.
Bộ Kinh tế quản lý việc cung cấp ngoại tệ cho những nhà nhập cảng theo hối suất chính thức. Việc này có thể trở nên khó khăn, hoặc thậm chí gây tranh cãi, khi có sự khác biệt đáng kể giữa hối suất chính thức và hối suất thị trường chợ đen. Các nhà nhập cảng nào được vận may sẽ thu lợi nhuận lớn khi đơn xin nhập cảng của họ dùng hối suất chính thức được chấp thuận. Có ba cách để đối phó với tình trạng mất cân bằng này: đánh thuế lợi nhuận, một kịch bản không thực tế; đưa hối suất chính thức lên cho phù hợp với hối suất thị trường bằng cách phá giá tiền Việt Nam, một biện pháp rủi ro về mặt chính trị; hoặc áp đặt kiểm soát giá đối với hàng hóa nhập cảng, một biện pháp phù hợp với truyền thống được thừa kế từ bộ máy quan liêu của Pháp, do đó an toàn về mặt chính trị nhưng không hiệu quả.
Mặc dù có một đợt phá giá vào tháng Mười năm 1961, hối suất đô la trên thị trường chợ đen vẫn tiếp tục gia tăng. Vì vậy, dù gây nhiều dư luận bất bình, Tổng trưởng Tài chính Âu Trường Thanh đã phá giá một lần nữa vào tháng Mười năm 1966, lần này được ngụy trang dưới dạng thuế “Phân suất quân bình” trên hàng nhập cảng. Sau đó không có thêm biện pháp nào trên thị trường ngoại hối cho đến năm 1971, khi Quốc hội trao cho Tổng thống thẩm quyền ấn định thuế, lãi suất, và hối suất. Chúng tôi phải chờ đến năm 1973 để rút chính phủ ra khỏi (nguyên văn: “liberalize”) việc cấp phép nhập cảng thông qua ủy quyền cho các ngân hàng thương mại, và nhờ vậy hối suất chính thức trở nên gần sát với hối suất trên thị trường tự do.
Sự ra đời của nền Đệ nhị Cộng hòa vào tháng Mười năm 1967 đã mở ra những cơ hội mới cho đất nước sau bốn năm bất ổn chính trị. Hiến pháp mới cho phép chúng tôi tạo ra một khung pháp lý mới để thu hút vốn nước ngoài và kỹ thuật về quản trị, đồng thời cập nhật các luật và quy định liên quan đến cải cách ruộng đất, chính sách tiền tệ và tài chính, hối suất, và đặc biệt là thăm dò dầu khí và tài nguyên thiên nhiên.
Hai thủ tướng đã đến và đi trong khoảng thời gian từ năm 1967 đến 1969, với rất ít thành quả trong lĩnh vực kinh tế và tài chính. Lạm phát vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát và thị trường chợ đen đô la Mỹ vẫn phát triển mạnh. Hiện tượng này có phần khó hiểu (nguyên văn: “counterintuitive”) vì ngoại tệ rất dồi dào trong nền kinh tế. Tổng số viện trợ của Mỹ kết hợp với số tiền mà quân đội Hoa Kỳ chi ra trung bình lên đến khoảng 700 triệu đô la mỗi năm trong khoảng thời gian từ 1966 đến 1968, gấp ba số tiền trong ba năm trước. Nguyên nhân cơ bản của thị trường chợ đen này là đồng bạc Việt Nam được định giá quá cao.
Một nội các mới được thành lập vào tháng Mười năm 1969 dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, một vị tướng bốn sao, người sẽ giữ chức vụ đứng đầu chính phủ trong 5 năm rưỡi tới. Điều này tạo sự liên tục và ổn định rất cần thiết để chúng tôi đưa ra quyết sách trong các lãnh vực kinh tế, tài chánh và đầu tư dài hạn. Chính phủ chịu áp lực rất lớn để giải quyết nạn lạm phát phi mã và thâm hụt ngân sách.
Tuy nhiên, bất kỳ biện pháp tiền tệ, tài chính hoặc hối suất nào cũng cần được Thượng viện và Hạ viện phê chuẩn. Làm việc với cơ quan lập pháp trở thành một phần trách nhiệm của Bộ chúng tôi. Kết quả là vô số cuộc họp mệt mỏi giữa các nhân viên tại Ngân hàng Quốc gia, Bộ Kinh tế và Tài chính và các Ủy ban lập pháp khác nhau.
Để đối phó với lạm phát và nhằm giảm thâm hụt, chúng tôi có một loạt các cuộc họp với cơ quan lập pháp để thảo luận và thống nhất về mức thuế nhập cảng mới. Các phiên họp kín này diễn ra trong Hội trường Hạ viện và tốn rất nhiều thời giờ. Trong thực tế, kết quả các cuộc đàm phán không được giữ bí mật và thuế suất mới không đem lại hiệu quả trong việc tăng doanh thu. Kết quả cuối cùng là một thảm họa sau khi chính phủ công bố chương trình kiệm ước vào tháng Mười năm 1969. Theo Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc (xem chương 3 trong tập này), doanh thu tăng lên ít dù giá hàng hóa nhập cảng tăng lên một cách đáng kể. Một giải pháp cần thiết là phá giá tiền tệ nhưng theo Hiến pháp mới tổng thống không được phép ban hành điều này.
Phá giá tiền tệ, tăng lãi suất, và tăng thuế không có lợi về mặt chính trị vì làm nhiều thành phần dân chúng bất bình. Và mặc dù các nhà lập pháp tuyên bố ủng hộ chống lạm phát nhưng không ai trong số họ muốn làm điều đó thông qua những biện pháp trên. Cuối cùng, tổng thống và cơ quan lập pháp đã đạt được thỏa hiệp dưới hình thức Luật Chương trình năm 1970.
Luật Chương trình ủy quyền cho tổng thống ấn định tỷ giá hối đoái, lãi suất hoặc thuế suất trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, việc quản lý thâm hụt giờ đây nằm trong thẩm quyền của Hành pháp, một trách nhiệm mà cơ quan lập pháp không thực sự
muốn đảm nhận. Về bản chất, thâm hụt ngân sách đã vượt khỏi tầm kiểm soát do tiền lương trả cho hơn 1.4 triệu nhân viên chính phủ và quân nhân, có lúc đã tiêu tốn 80% tổng ngân sách. Để đối phó với thách thức tài chính này, chúng tôi cần giải quyết ba vấn đề: hối suất xác định mức ngoại viện trợ qua Quỹ đối giá; lãi suất xác định mức tiết kiệm của khu vực tư nhân để thanh khoản dư thừa; và thuế suất của chúng tôi.
Khi áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi vào tháng Bảy năm 1971, chúng tôi quyết định bỏ qua các yếu tố chính trị. Theo cách làm mới, Ngân hàng Quốc gia công bố điều chỉnh nhỏ giọt tỷ giá hối đoái cứ sau vài ngày, tùy thuộc vào điều kiện thị trường và lạm phát. Nhưng tỷ giá hối đoái vẫn khá ổn định, giữ khá tốt cho đến vài tuần trước khi VNCH sụp đổ. Tương tự, chúng tôi cũng thực hiện chính sách lãi suất thả nổi phản ảnh các điều kiện thị trường. Điều này cung cấp một động lực cho khu vực tư nhân để tiết kiệm hoặc mua công khố phiếu, thu dọn thanh khoản dư thừa. Đến năm 1974, mua trái phiếu của khu vực tư nhân chiếm 12% ngân sách quốc gia.
Cuối cùng, để giải quyết khó khăn tài chính, chúng tôi phải tăng doanh thu thuế nội địa. Chúng tôi cần những sắc thuế mới, cải thiện thuế suất, và làm tốt hơn việc quản trị và thu thuế. Mặt khác, thật là một điều phi thực tế nếu hy vọng miền Nam Việt Nam sẽ có thể chịu trọn gánh nặng của cuộc chiến mà không có một giai đoạn chuyển tiếp đủ dài để cho phép ngoại viện được loại bỏ dần.
Chúng tôi phải gánh chịu rủi ro chính trị lớn khi áp dụng thuế giá trị gia tăng (TGTGT, nguyên văn “value-added tax”/VAT). Thuế này có hai tính năng hấp dẫn. Đầu tiên, TGTGT có thể được công bố bằng nghị định của tổng thống theo Luật Chương trình mà không phải tham khảo ý kiến của cơ quan lập pháp. Thứ hai, gánh nặng TGTGT được chia sẻ rộng rãi trong xã hội. Quan trọng nhất, theo ước lượng của Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách có thể được giảm một cách đáng kể chỉ bằng những điều chỉnh nhỏ của thuế suất TGTGT.
Có lẽ VNCH là quốc gia duy nhất ở châu Á có thuế TGTGT vào thời điểm đó. Nó đã được giới thiệu ở một số nước châu Âu. Pháp đã thử nghiệm TGTGT một cách hạn chế bắt đầu từ năm 1954, nhưng không mở rộng đến phạm vi của ngành bán lẻ cho đến năm 1968. Đan Mạch là quốc gia châu Âu đầu tiên giới thiệu đầy đủ, với một tỷ
lệ duy nhất vào năm 1967. Còn ở Mỹ thì ít người biết đến TGTGT. Tuân thủ TGTGT và thực thi cũng tương đối đơn giản. Các doanh nghiệp được yêu cầu lưu giữ hồ sơ mua hàng và bán hàng, và các khoản thuế được trả hoặc thu, trong khi các nhà bán lẻ chỉ cần ghi lại các giao dịch mua và thuế của họ. Sau khi điện toán hóa dữ liệu môn bài bán lẻ, phát hiện gian lận sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều và TTGGT cũng sẽ hữu ích trong việc cải thiện tập quán tuân thủ thuế kinh doanh.
TGTGT ban đầu thực hiện có phần vội vàng. Nó gây ra một sự náo động chính trị đáng kể, và có thể làm cho một tổng trưởng bị cách chức. Tuy nhiên, theo thời gian nó đã chứng tỏ là một nguồn thu thuế đáng kể. Sau những biện pháp trên, chúng tôi có thể đại tu hệ thống thuế nội địa. Luật mới được ban hành vào năm 1972 và đến năm 1974, cấu trúc thuế nội địa gần như được hiện đại hóa hoàn toàn. Đến năm 1973, chúng tôi đã thu thuế cao hơn 70% so với năm trước, mặc dù chỉ tăng 17% khi điều chỉnh theo lạm phát.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng phải đối mặt với một số loại khủng hoảng giá khác nhau trong thập niên này, đáng chú ý nhất là hai vụ liên quan đến mua bán lúa gạo và cung cấp các sản phẩm dầu khí. Các cuộc khủng hoảng giá gạo nói riêng diễn ra nhiều lần, do một loạt các yếu tố như tích trữ đầu cơ gây tình trạng khan hiếm giả tạo; hoạt động quân sự liên tục làm gián đoạn phân phối; thương cảng tắc nghẽn gây chậm trễ trong vận chuyển; hoặc vì kẻ thù phá hoại mùa màng. Các biện pháp thông thường để đối phó với khủng hoảng giá lúa gạo là cử thanh tra đi điều tra và áp đặt hình phạt. Nhưng cách tiếp cận này không bao giờ đạt hiệu quả cao vì nạn tham nhũng. Chúng tôi giải quyết vấn đề này bằng một cách tiếp cận mới hoàn toàn: đó là loại bỏ các trạm kiểm soát, bỏ việc kiểm soát giá cả, và thiết lập một kho chiến lược dự trữ gạo ở các vùng thiếu lương thực. Đến năm 1975, chúng tôi đã chuẩn bị xuất cảng gạo trở lại sau mười hai năm chỉ nhập cảng.
Trong khi đó, liên quan đến dầu mỏ, chúng tôi đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng vào năm 1973 gây ra bởi hai sự kiện. Thứ nhất là hỏa tiễn của kẻ thù đã phá hủy gần 50% trữ lượng dầu mỏ của chúng tôi đang lưu trữ tại kho xăng dầu Nhà Bè, đúng vào lúc giá dầu tăng gấp bốn lần sau khi tổ chức OPEC (tổ chức của các nước xuất khẩu dầu mỏ) phản ứng với chiến tranh Yom Kippur giữa Do Thái và các nước Ả Rập. Để giữ cho quân đội của chúng tôi được cung cấp đầy đủ, chúng tôi phải giảm ngay lập tức và giảm đáng kể mức tiêu thụ xăng dành cho dân sự, dẫn đến giá xăng và dầu hỏa ở miền Nam Việt Nam lên đến mức cao nhất thế giới. Nhưng không ai trong chúng tôi nghĩ đến việc phát phiếu mua xăng hạn chế. Một tình huống khác làm chúng tôi luôn lo lắng là việc người gửi tiền rút tiền ồ ạt từ ngân hàng vì điều này sẽ làm tổn hại đến niềm tin của nhà đầu tư và kinh doanh. Vì rủi ro của việc rút tiền như vậy luôn cao trong thời chiến nên phải tìm cách ngăn chặn điều đó xảy ra. Để đề phòng trường hợp này, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam duy trì một bộ đầy đủ giấy bạc Việt Nam hoàn toàn mới được lưu trữ trong kho để đưa ra lưu hành hoặc bảo lãnh cho các ngân hàng trong trường hợp họ bị khách hàng rút tiền ồ ạt. Điều chúng tôi sợ nhất đã xảy ra vào đầu năm 1975, khi hàng loạt dân thường chạy trốn cộng sản lúc họ trên đường từ miền Trung tiến công vào Sài Gòn. Chúng tôi biết chiến lược của cộng sản là gieo rắc sự hoảng loạn về tài chính, thậm chí có thể làm sụp đổ chính quyền trước khi bắn những phát súng đầu tiên. Trong mọi trường hợp, cảnh tượng hàng ngàn người tị nạn đến Sài Gòn và ồ ạt rút tiền đã gây ra tâm lý hoảng hốt, lo sợ ở thủ đô, dẫn đến việc dân chúng bắt đầu xếp hàng dài tại mỗi chi nhánh ngân hàng ở Sài Gòn.
Không ngân hàng nào có thể tồn tại trong trường hợp khách hàng rút hết tiền ký gửi, do vậy Ngân hàng Quốc gia là định chế cho vay cuối cùng phải dốc toàn lực can thiệp. Sử dụng loại tiền giấy mới trong kho chưa được lưu hành, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Lê Quang Uyển đã nới rộng hạn mức tín dụng cho vay không giới hạn cho tất cả các ngân hàng thương mại với điều kiện họ phải thỏa mãn mọi yêu cầu rút tiền của khách hàng không bị cản trở hay phải theo thủ tục hành chánh phức tạp. Sau nhiều ngày rút tiền mặt ra, khách hàng của ngân hàng đã phải đối mặt với một vấn đề mới: làm thế nào để giữ cả đống tiền mặt trong bối cảnh chiến tranh đang diễn ra. Vì vậy hầu hết tiền mặt rút ra đã được gửi lại ngân hàng ngay sau tuần đầu. Chúng tôi tránh được sự sụp đổ có khả năng tàn phá ngân hàng mà không cần nỗ lực nhiều, và cuối cùng, Ngân hàng Quốc gia thậm chí không cần phải dùng đến số tiền giấy đã dự trữ của mình.
Ngoài việc vật lộn với khủng hoảng triền miên, chúng tôi cũng nỗ lực để đặt nền tảng cho sự phát triển trong tương lai dựa trên đánh giá thực tế về những điểm mạnh, điểm yếu, và cơ hội lâu dài. Các mục tiêu phát triển dài hạn của chúng tôi dựa trên các đặc tính như
khung pháp lý vững chắc, thể chế mạnh mẽ, chính sách hợp lý, và quy trình minh bạch. Chúng tôi đã cố gắng vượt qua các thách thức của nền kinh tế như thiếu động lực đầu tư, rủi ro chiến tranh cao, chuyên môn kỹ thuật hạn chế, và tình trạng thiếu nhân lực.
Hai dự án thành công nổi bật đối với tôi: Chương trình Người Cày Có Ruộng, và tìm kiếm trữ lượng dầu ngoài khơi. Chương trình Người Cày Có Ruộng, được ban hành năm 1970, có bốn yếu tố thuận lợi (xem chương 4 trong tập này). Đầu tiên là niềm tự hào của người nông dân về quyền sở hữu sau khi chúng tôi cấp miễn phí cho họ mảnh đất mà tổ tiên họ đã làm tá điền (mảnh đất họ được cấp có thể rộng đến ba mẫu tây (hecta) ở đồng bằng sông Cửu long và một mẫu tây ở miền Trung). Tiếp theo là sự ra đời của lúa Thần nông có thể tăng năng suất lúa lên tới 400%, một bước đột phá công nghệ trong sản xuất lương thực. Yếu tố thứ ba là chính sách mới tạo sự hình thành thị trường tự do (nguyên văn: “market pricing”) bằng cách loại bỏ kiểm soát giá cả và khai thông mạng lưới phân phối gạo trên toàn quốc. Và cuối cùng, chương trình thành công nhờ vào kiến thức và kinh nghiệm trồng lúa của người nông dân trên mảnh đất của họ – không ai giỏi hơn họ trong việc đánh giá rủi ro trong vụ mùa. Đến năm 1974, chúng tôi đã đạt được mục đích tự cung tự cấp gạo và đang chuẩn bị xuất cảng lại vào năm sau. Đối với dầu, không thể chối cãi rằng yếu tố may mắn đóng một vài trò trong tìm kiếm dầu thành công. Rất hiếm khi tìm được dầu chỉ sau vài giếng đầu tiên, nhưng trong vòng một năm sau khi ký thỏa thuận thăm dò và nhượng bộ, chúng tôi đã khám phá một mỏ dầu khổng lồ (đặt tên là “Voi”). Phải kể đến công trạng của Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc, Tổng giám đốc Cục Dầu khí Quốc gia Trần Văn Khởi, và các thành viên của Ủy ban Dầu khí Quốc gia. Sau khi Luật Dầu khí Quốc gia được thông qua vào năm 1970, các vị nêu trên đã đưa ra một loạt các quyết định sáng suốt, bao gồm việc sử dụng các chuyên gia kỹ thuật của Iran; việc đạt được một thỏa thuận hợp tác cân bằng lợi ích của các bên; một quá trình đấu giá minh bạch thu hút các công ty quốc tế lớn nhất và đáng tin cậy nhất; và sự lựa chọn khôn ngoan không thành lập công ty khai thác dầu quốc doanh. Chúng tôi sẽ phải trả giá rất lớn về thời gian và tiền bạc, nếu cố gắng tự mình chiết xuất dầu, và luôn có khả năng không tìm thấy dầu. Thêm nữa, việc bán quyền khai thác dầu ngoài khơi – nơi mà rủi ro xảy ra giao tranh rất thấp – dẫn đến việc tăng ngân khoản ngoại tệ ngay lập tức lên tới 47 triệu đô la Mỹ chỉ sau hai vòng đấu giá.
Cuối cùng, tôi muốn thừa nhận tác động của những đóng góp viện trợ của Mỹ đối với các cơ hội phát triển lâu dài của chúng tôi. Tài chính cho các dự án như Quỹ Phát triển Kinh tế Quốc gia, Chương trình Người Cày Có Ruộng, và Dự trữ lúa gạo chiến lược là rất cần thiết. Ngoài ra, không nên bỏ qua giá trị của hạ tầng cơ sở do Quân đoàn Kỹ sư Công binh xây dựng. Tôi có thể ước tính rằng chi phí cho các hoạt động trên để tạo điều kiện cho sự tham gia của quân đội Hoa Kỳ lên tới khoảng 3,2 tỷ đô la, tức là khoảng 20% tổng số hỗ trợ quân sự của Mỹ trong giai đoạn này.
Các chương trình phát triển hậu chiến cũng nhận được nhiều sự quan tâm ở cấp cao nhất của cả hai chính phủ Việt-Mỹ. Trong Hội nghị thượng đỉnh Manila năm 1966, Tổng thống Johnson và Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ xác định rằng “người Việt và người Mỹ cần phải làm việc cùng nhau để xem xét các vấn đề và cơ hội trong thời kỳ hậu chiến, và thiết lập các chính sách và chương trình để khôi phục và phát triển nhanh chóng nền kinh tế Việt Nam – bất cứ khi nào và nơi nào có thể.”[6] Theo kết quả của Hội nghị thượng đỉnh, một nhóm phát triển hỗn hợp Hoa Kỳ-Việt Nam được thành lập và soạn thảo “Báo cáo phát triển hậu chiến Thuc-Lilienthal”. Thật không may, báo cáo đã nằm hứng bụi trên kệ của Bộ Kế hoạch, có thể là do không đủ thời gian để xem xét các đề nghị. Giả định về một kịch bản hậu chiến cũng còn quá sớm và không thực tế.
Vào thời điểm này ta có thể thấy rõ hơn khuyến nghị về phát triển nông nghiệp trong Báo cáo là hoàn toàn không thực tế. Theo khuyến nghị này, sự phân mảnh các thửa ruộng lớn (khi chia ruộng đất), bất kể có làm ảnh hưởng đến sản xuất và thu nhập của nhà nông hay không, không phải là một điều mong muốn. Có nhiều loại cây cần được trồng trên diện tích quy mô lớn mới mang lại lợi nhuận, và không nên tiến hành cải cách ruộng đất tới mức cản trở sự hình thành và hoạt động của các doanh nghiệp lớn. Để giải quyết tình trạng nghèo đói ở nông thôn tại một số khu vực, chúng ta có thể sử dụng một lực lượng lao động nông nghiệp làm việc có hiệu quả, thay vì để nông dân chỉ trông cậy vào mấy thửa ruộng nhỏ.[7]
Mục tiêu của chương trình cải cách ruộng đất của chúng tôi hoàn toàn ngược lại; mục tiêu đó tạo ra một giai cấp chủ đất nhỏ bằng cách cấp miễn phí cho họ mảnh đất mà họ đã canh tác qua nhiều thế hệ. Vì đề xuất của Thuc-Lilienthal không chỉ khiến họ không có đất mà còn lâm vào cảnh thất nghiệp. Dĩ nhiên họ sẽ được bồi thường theo chương trình này, nhưng số tiền nào có thể biện minh cho những thay đổi lớn lao trong đời sống của họ như vậy?
Hồi tưởng lại
Nhìn lại, chúng tôi không có vốn để phung phí vào các dự án lớn. Chúng tôi không có nhân lực hoặc tổ chức để phát triển chuyên môn trong bất kỳ lĩnh vực cụ thể nào. Đôi khi chúng tôi cố gắng can thiệp vào thị trường với giả định sai lầm rằng chúng tôi có thể kiểm soát giá cả, ngăn chặn đầu cơ, và ngăn thực phẩm không đến tay kẻ thù. Nhưng thường thì chúng tôi cố gắng thuyết phục các nhà lãnh đạo của mình để cho thị trường vận hành dù nó có thể không hoàn hảo. Nhiệm vụ của chúng tôi chỉ đơn giản là thiết lập nền tảng pháp lý vững chắc, thúc đẩy các thể chế mạnh mẽ, thực hiện các chính sách hợp lý, và quản trị cho tốt.
Chúng tôi đã học được từ kinh nghiệm của các quốc gia khác với các hình thức kinh tế và chính phủ tương tự. Công thức bao gồm nền kinh tế thị trường, khu vực tư nhân phát triển, và chính sách hợp lý đã làm nên kỳ tích tại các nước nhỏ ở châu Á như Hồng Kông, Singapore, Đài Loan và Đại Hàn. Và chúng tôi tin rằng ngay cả trong hoàn cảnh chiến tranh, các biện pháp và chính sách tương tự cũng có thể thành công ở Việt Nam.
Chú thích
- Douglas C. Dacy, Foreign Aid, War, and Economic Development, South Vietnam, 1955-1975 (New York: Cambridge University Press, 1986), 200.
- Hugues Tertrais, La piastre et le fusil, le coût de la guerre d’Indochine 1945- 1954 (Paris: Comité pour l’histoire éonomique et financière de la France, 2002).
- Xem Tuong Vu, Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology (New York: Cambridge University Press, 2017), tr. 20.
- Dacy, Foreign Aid, tr. 40, bảng 3.1.
- Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: The Viking Press, 1983), tr. 436.
- Vũ Quốc Thúc and David Lilienthal, “The Postwar Development of the Republic of Vietnam: Policies and Programs” (Saigon: Joint Development Group, Postwar Planning Group, Development and Resources Corp., 1969) tập 2, tr. ix-x.
- Như trên, tập 2, tr. 30.
Bạn có thể thích
Về giao thông và dự án xe lửa cao tốc ở Việt Nam
Giới thiệu sách “12 Bản của The Federalist Papers: Những Kiệt tác luận về Hiến Pháp Hoa Kỳ và chính quyền của dân, do dân, và vì dân.”
Về lịch sử và chiến lược xây dựng hệ thống xe lửa cao tốc ở Trung Quốc
Tranh siêu nghịch đảo : khả thể bốn chiều và sự mở rộng các biên độ
PHỎNG VẤN ĐOÀN VIẾT HOẠT
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần A)
Tư liệu lịch sử: Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ 1972
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần B)
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần C)
“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu – Điểm sách “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ
-
Kinh tế - Chính trị1 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần A)
-
Tư liệu lịch sử3 năm trước
Tư liệu lịch sử: Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ 1972
-
Kinh tế - Chính trị1 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần B)
-
Kinh tế - Chính trị1 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần C)
-
Lịch sử Việt-Mỹ4 năm trước
“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu – Điểm sách “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”
-
Kinh tế - Chính trị4 năm trước
Vụ án Nhân văn Giai phẩm: Thụy An, một số phận bi thảm
-
Kinh tế - Chính trị5 năm trước
Tư liệu: Thư Trần Phú gửi Quốc tế cộng sản, phê phán Nguyễn Ái Quốc 17-4-1931
-
Tư liệu lịch sử3 năm trước
Đảng phái quốc gia Việt Nam, 1945-1954 – Lời kể của nhân chứng