Connect with us

Lịch sử Việt-Mỹ

Góc nhìn mới về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa: kinh nghiệm kiến quốc

Vũ Tường và Sean Fear

Published on

Lời tòa soạn: Đây là bài giới thiệu cho quyển sách “The Republic of Vietnam, 1955–1975 Vietnamese Perspectives on Nation Building” (Việt Nam Cộng Hòa, 1955 – 1975, những tầm nhìn của người Việt về kiến quốc), ‎ Southeast Asia Program Publications, Cornell University Press, January 15, 2020, do Giáo sư Vũ Tường, University of Oregon, USA, và Giáo sư Sean Fear, University of Leeds, UK) chủ biên. Dưới đây là bản dịch tiếng Việt in trong sách “Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975, kinh nghiệm kiến quốc”, Văn Học xuất bản, 2022.

Vũ TườngSean Fear

Chiến tranh Việt Nam mặc dù khởi đầu nhỏ bé nhưng nhanh  chóng biến thành cuộc chiến tranh quy ước có tính quyết định của  thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trong những năm cuối của cuộc chiến, hai  phe đã đưa vào sử dụng thiết giáp, pháo binh, máy bay trực thăng, hệ tên lửa phòng không có lẽ tối tân nhất thế giới, và phi cơ oanh tạc suốt  ngày đêm với quy mô chưa từng có. Mặc dù khốc liệt như vậy, về mặt  bản chất đây là cuộc chiến chính trị hơn là quân sự. Mâu thuẫn cơ bản  của cuộc xung đột là hai quan điểm đối nghịch nhau của phe cộng  sản và phe cộng hòa về xây dựng một quốc gia ở miền Nam. Mỗi phe  được đồng minh quốc tế của mình ủng hộ với mức độ khác nhau.

Phần lớn những nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam đều mắc  phải khuyết điểm lấy Mỹ làm trọng tâm (“American-centric” hay  “US-centric”), chỉ tập trung vào quyết sách và kinh nghiệm của  phía Mỹ không cần biết các bên khác.[1] Cũng có khá nhiều nghiên cứu về cuộc chiến nhìn từ phía cộng sản Hà Nội. Chỉ mới gần đây  mới có một số học giả lưu ý đến quan điểm và vai trò của phía Việt  Nam Cộng Hòa (VNCH), có điều là họ vẫn bị giới hạn trong một  giai đoạn nhất định hay các chính sách cụ thể.[2] Các nhà lãnh đạo  VNCH đóng vai trò gì và thái độ như thế nào? Họ đồng ý hay bất  đồng với người Mỹ ra sao? Vai trò của xã hội dân sự và dân chúng  ở miền Nam Việt Nam thế nào? Câu trả lời cho những câu hỏi này  phần lớn vẫn còn để ngỏ.

VNCH không phải là con rối của Mỹ, cũng không chỉ đóng vai  trò bàng quan, bằng cớ là họ đã quyết tâm thực thi một chương trình  phát triển quốc gia theo viễn kiến của họ. Chương trình này phần  lớn do chính quyền trung ương điều khiển, ví dụ như việc cưỡng  bách tái định cư; các thử nghiệm cải cách kinh tế theo xu hướng  tăng vai trò của chính phủ hay của thị trường; chính sách phát triển  nông nghiệp và đăng ký quyền sở hữu đất đai; nỗ lực hiện đại hóa hệ thống giáo dục quốc dân; và, vào năm 1967, một cuộc cải tổ chính trị sâu rộng với một hiến pháp mới, hai viện lập pháp, và chế độ bầu  cử đại biểu ở cấp quốc gia và cấp hương thôn.

Thường dân cũng tham gia xây dựng quốc gia như độc giả sẽ thấy trong những bài viết trong tập sách này. Quân đội vào lúc phát  triển nhất có hơn một triệu binh sĩ. Bên cạnh những người bị cưỡng  bách tòng quân theo chế độ quân dịch là hàng ngàn thanh niên tình  nguyện gia nhập quân đội. Họ thường xuyên chiến đấu dũng cảm  trong những điều kiện bất lợi. Mặc dù có tình trạng đào ngũ, tham  nhũng và những yếu kém khác, nhiều chiến sĩ vẫn chiến đấu quả cảm. Sự kiên cường của họ trước những đợt tấn công mãnh liệt của  cộng quân vào năm 1968 và 1972 đã giúp VNCH tồn tại lâu hơn.[3]

Trong khi đó, mặc dù nhiều khi bị chính phủ quấy rối, các nghệ sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, và thậm chí các minh tinh điện ảnh và truyền hình  miền Nam góp phần tạo nên một nền văn hóa sôi động ở Sài Gòn.  Tác phẩm của họ được công chúng hoan nghênh hơn nhiều so với  các sản phẩm văn hóa sặc mùi tuyên truyền chính trị của cộng sản.  Giới báo chí miền Nam cũng cưỡng lại nhiều nghị định kiểm soát  báo chí của chính phủ, tạo cho VNCH một nền báo chí năng động  và độc lập. Tinh thần và hành động phản đối mạnh mẽ những biểu  hiện độc đoán của chính phủ cho thấy xã hội dân sự ở miền Nam  Việt Nam thực sự hướng đến các giá trị cộng hòa và tinh thần hợp  hiến. Qua những nỗ lực tập thể này chúng ta có thể thấy được một  căn cước dân tộc xây trên nền tảng chủ nghĩa chống cộng đã xuất  hiện và kết tinh ở miền Nam trong khói lửa chiến tranh.

Quyển sách trên tay độc giả là thành quả của một hội thảo  chuyên đề được tổ chức tại University of California, Berkeley vào  hai ngày trong tháng 10 năm 2016. Hội thảo này nhằm mục đích  khuyến khích sự hiểu biết sâu sắc hơn về Việt Nam Cộng Hòa.

Khác với một sinh hoạt học thuật bình thường, ngoài một số bài  thuyết trình của giới nghiên cứu, trong số các diễn giả có mười lăm  nhân vậ t nổi bật của VNCH trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,  quân đội, giáo dục, văn nghệ và báo chí.

Không phải dễ dàng để tập hợp những nhân vật lịch sử này tại  Berkeley. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới. Người trẻ nhất trong  số họ đã ngoài lục tuần, còn người lớn tuổi nhất đã ngoài 90.[4] Hai  trong số các diễn giả được mời — ông Võ Long Triều, nguyên chủ

nhiệm kiêm chủ bút của báo Đại Dân Tộc và nhà lập pháp đối lập  trong Quốc hội VNCH, và Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, nguyên  Thứ trưởng Bộ Giáo dục VNCH — qua đời chỉ vài tháng trước Hội  thảo. Hai diễn giả khác, Giáo sư Vũ Quốc Thúc và Giáo sư Cao  Văn Thân, chỉ có đủ sức khỏe để chào mừng khách tham dự Hội  thảo từ Paris và Montreal (các bài viết của họ được người khác đọc  hộ và được in trong sách này). Ông Lâm Lễ Trinh, Giáo sư Luật  và nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ, và ông Huỳnh Văn Lang, nguyên  Giám đốc Viện Hối Đoái và người sáng lập tạp chí Bách Khoa, trình  bày qua video từ Nam California (bài thuyết trình của họ không  được bao gồm trong tập này).[5]

Một việc đặc biệt có ý nghĩa là, mặc dù những nhân vật này đã  đóng một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử Việt Nam, ngay  cả đến giờ phút này sách vở nghiên cứu viết bằng Anh ngữ về chiến  tranh hầu như không hề nhắc đến họ. Hiện tượng này xác nhận  khuynh hướng xưa nay của giới sử gia là không quan tâm đến quan điểm của người miền Nam không cộng sản. Hội thảo của chúng tôi  là lần thứ hai trong những năm gần đây các nhân vật quân sự và  dân sự của VNCH có mặt và trình bày tham luận của họ trong môi  trường tôn nghiêm của trường đại học.[6] Trong số diễn giả có cả nam  lẫn nữ, cả giới chức quân sự và dân sự, cả tầng lớp lãnh đạo cũng  như thường dân — thành phần của họ phản ảnh nhiều mặt của xã hội  miền Nam Việt Nam.

Độc giả có thể đồng ý hay không với quan điểm của các nhân  vật lịch sử này, nhưng chúng tôi hy vọng rằng họ sẽ cung cấp thêm  kiến thức cho các nhà nghiên cứu lẫn độc giả bình thường, soi sáng  các sự kiện lịch sử mà họ đã tham gia và trải nghiệm, và truyền lại  ký ức và cảm nghĩ của một thế hệ sắp khuất bóng. Do đó, ngoài việc  biên tập nhẹ để chỉnh sửa về độ dài và làm cho rõ nghĩa hơn, chúng  tôi cố gắng giữ nguyên vẹn các bài viết của họ.

Xây dựng quốc gia trong chiến tranh 

Khái niệm kiến quốc hay xây dựng quốc gia (“nation-building”)  có thể được định nghĩa theo hai cách: một là những nỗ lực có chủ đích nhằm tạo ra một cộng đồng quốc gia bền vững, hai là một quá  trình trừu tượng đưa đến sự thành hình của một cộng đồng như vậy.  Căn bản cho cộng đồng là ý thức đoàn kết được xây dựng trên cơ sở cùng tín ngưỡng, cùng tậ p quán văn hóa, hoặc sự đồng thuận về một  số nguyên tắc chính trị căn bản.[7] Nếu là một quá trình trừu tượng,  xây dựng quốc gia có thể diễn ra trong nhiều thế kỷ song song với  các quá trình khác như chiến tranh, sự hình thành nhà nước, đô thị hóa và kỹ nghệ hóa. Nếu là một nỗ lực có chủ đích, xây dựng quốc  gia có thể được giới tinh hoa trong cộng đồng hoặc các thế lực nước  ngoài khởi xướng và bảo trợ.

Sau Đệ nhị Thế chiến, tầng lớp tinh hoa ở nhiều nước châu Phi  và châu Á tìm cách lật đổ các chế độ thực dân để thành lập quốc  gia mới. Là một siêu cường, Hoa Kỳ từng lãnh đạo nhiều nỗ lực  xây dựng quốc gia ở nước ngoài để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản  (ví dụ, Nam Việt Nam) hoặc đi kèm với thay đổi chế độ (ví dụ,  Afghanistan và Iraq).

Nói đến việc xây dựng quốc gia sau năm 1945, không thể không nhấn mạnh tầm quan trọng của bối cảnh hậu thuộc địa. Sau  khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, phần lớn những quốc gia mới thành  lập ở châu Á và châu Phi đều bị thách thức nghiêm trọng bởi nạn  mù chữ, tình trạng xã hội bị chia rẽ sâu sắc, cộng thêm những bất  ổn chính trị và việc phụ thuộc nước ngoài về kinh tế. Với những rào  cản này, có lẽ không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy nhiều quốc gia  phải tranh đấu vất vả mà chưa chắc đã tạo ra được một cộng đồng  có độ gắn kết cao, một nền kinh tế phát triển bền vững, hoặc một  xã hội bình đẳng.

Xây dựng quốc gia thời hậu thuộc địa rất gay go cũng vì các  nhóm tinh hoa lãnh đạo xã hội có quan điểm đối nghịch nhau không  ai nhường ai, dẫn đến xung đột bằng bạo lực và nội chiến. Ngoài  việc gây ra bất ổn chính trị, chiến tranh còn tước đi các nguồn lực  cần thiết để phát triển quốc gia. Một thách thức đặc biệt trong thời  chiến là làm sao duy trì các chuẩn mực và thể chế dân chủ. Vấn đề

này không phải trừu tượng mà rất cụ thể: làm thế nào tổ chức bầu cử an toàn không bị kẻ thù phá hoại; liệu có cho phép biểu tình phản  đối chiến tranh mặc dù kẻ thù có thể lợi dụng; làm sao truy tố tội  ác chiến tranh do quân nhân vô kỷ luật gây ra mà không làm suy  giảm tinh thần của quân đội ngoài tiền tuyến; và làm thế nào bảo  vệ quyền công dân và đồng thời ngăn chặn kẻ thù xâm nhập. Đó là  những vấn đề nan giải rất mệt trí cho cả các nền dân chủ lâu đời, huống chi cho các chính phủ trẻ thiếu truyền thống dân chủ. Chiến  tranh càng kéo dài và càng dữ dội thì các thể chế và giá trị dân chủ càng dễ bị đe dọa.

Giống như nhiều quốc gia trẻ tuổi khác ở châu Á và châu Phi  thời hậu thuộc địa, Việt Nam Cộng Hòa đối mặt với một dân số phần lớn mù chữ; một nền kinh tế kém phát triển và thương mại phụ thuộc vào mẫu quốc; một xã hội nhiều thành phần bị chia rẽ chủng  tộc và phân chia giai cấp sâu sắc. Đây là điều kiện khách quan  thường làm cho những phong trào cách mạng cực đoan giành được  hậu thuẫn trong các xã hội hậu thuộc địa. Trên thực tế, khi VNCH  được thành lập vào năm 1955, một chính phủ cách mạng cộng sản  đã đang củng cố quyền lực ở miền Bắc Việt Nam và đe dọa sự sống  còn của VNCH. Tuy nhiên, chiến tranh không phải vấn đề duy nhất  VNCH đối mặt, mà quan trọng hơn là những cố gắng chung của tập  thể dân chúng cùng với chính quyền để xây dựng quốc gia mới. Đây  chính là điều chúng tôi muốn tìm hiểu trong sách này.

Những thách thức của việc xây dựng quốc gia  Việt Nam Cộng Hòa 

Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), hay “Nam Việt Nam”, được  thành lập vào tháng 10 năm 1955 dưới sự lãnh đạo của Tổng thống  Ngô Đình Diệm cùng với sự hỗ trợ của nhiều đảng phái chính trị Việt Nam. Bối cảnh ra đời của VNCH là cuộc chiến (1946-1954)  giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hò a (VNDCCH). Chính  quyền VNDCCH do Hồ Chí Minh và những người cộng sản lãnh  đạo lúc đầu đề cao độc lập dân tộc và thu hút sự tham gia của  rất nhiều nhân sĩ không cộng sản. Sau khi phe cộng sản trong  VNDCCH củng cố quyền lực và nhận được sự hỗ trợ của Liên  Xô và Trung Cộng, nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc nhưng  bất đồng với cộng sản đã tập hợp sau lưng cựu Hoàng đế Bảo Đại  với mục tiêu thành lập một chính phủ Việt Nam thống nhất, độc  lập không lệ thuộc Pháp, và không cộng sản. Để đối phó với quân đội VNDCCH do Trung Cộng đào tạo và trang bị, Pháp thành lập quân đội Việt Nam phụ trợ gồm khoảng 167.000 binh sĩ.[8] Bị bộ đội của Hồ Chí Minh đánh bại trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, Pháp ký hiệp định hòa bình tại Geneva và bắt đầu rút  quân khỏi Đông Dương. Hiệp định Geneva chia Việt Nam ra làm  hai dọc theo vĩ tuyến 17. Sau Hiệp định, chính quyền VNDCCH  được hợp pháp hóa ở miền Bắc song song với chính phủ của Bảo  Đại ở miền Nam. Trong khi các lực lượng cộng sản nhanh chóng  củng cố quyền kiểm soát toàn miền Bắc Việt Nam, Ngô Đình Diệm  – một nhà tranh đấu cho độc lập và cũng là một tín đồ Công giáo – đã thắng trong cuộc tranh quyền với Bảo Đại và những thế lực khác.  Đến năm 1955, ông Diệm đã loại bỏ Bảo Đại và những người bảo  hoàng qua một bên để xác lập quyền lực của mình và khánh thành  Việt Nam Cộng Hòa. Ông Diệm có thể dễ dàng thắng cuộc bỏ phiếu  này nên những kết quả ngụy tạo trong cuộc trưng cầu dân ý là không  cần thiết.

Chế độ cộng hòa do ông Ngô Đình Diệm lập ra không phải bắt  đầu từ số không. Nó thừa hưởng bộ máy chính quyền thuộc địa và  quân đội Việt Nam do Pháp đào tạo. VNCH có lãnh thổ trải rộng  đến vĩ tuyến 17 – là ranh giới với VNDCCH ở miền Bắc. VNCH có  khoảng 14 triệu dân, bao gồm nhiều người cộng sản “nằm vùng” do  phe cộng sản cài lại.

Nền cộng hòa miền Nam dường như bị thua kém chế độ cộng  sản miền Bắc từ khi mới khai sinh. Việc khó khăn nhất là xây dựng  tính chính danh của chế độ trong dân chúng. Dù ông Ngô Đình  Diệm có danh tiếng và thành tích chống thực dân, nhà nước mà ông  thừa hưởng đã ra đời dưới bóng quân đội viễn chinh Pháp. Các lực  lượng vũ trang cần phải tái tổ chức hoàn toàn trong khi chưa chắc  quân đội có trung thành với chính phủ mới hay không. Hợp tác  với Mỹ là một con dao hai lưỡi, có thể phương hại đến uy tín của  VNCH như một quốc gia độc lập. Hơn nữa, trong khi nhiều người ở miền Nam sợ cộng sản, họ bị chia rẽ bởi những vấn đề chủ ng tộc,  tư tưởng, tôn giáo, và vùng miền. Tóm lại, có thể nói sau khi nhậm  chức tổng thống, ông Ngô Đình Diệm vẫn chưa có được sự ủng hộ tin tưởng rộng rãi của các phe phái chính trị không cộng sản của  miền Nam.

Ở nông thôn, chính phủ Ngô Đình Diệm thậm chí còn ở trong  tình trạng khó khăn hơn. Nhiều vùng nông thôn của miền Nam đã  quen sống dưới sự cai trị của cộng sản trong cuộc chiến tranh với  Pháp. Nhiều người không cộng sản còn tôn trọng lãnh tụ cộng sản  Hồ Chí Minh. Hơn nữa, sau Hiệp định Geneva, phe cộng sản đã để lại các kho vũ khí và cán bộ bí mật để có thể huy động cho mục tiêu  chính trị hoặc quân sự trong tương lai. Trong khi đó, gần một triệu  người miền Bắc chống cộng đã di cư vào Nam cần được hỗ trợ khẩn  cấp. Xung đột giữa người Bắc di cư và người miền Nam là một nguy  cơ có thực.

Bất chấp những thách thức đó, chính phủ Ngô Đình Diệm tỏ ra  tương đối hiệu quả trong năm năm đầu nắm quyền. Nam Việt Nam  đạt được ổn định chính trị và an ninh quân sự, cho phép kinh tế và  văn hóa phát triển đáng kể. Quá trình xác lập chủ quyền của người  Việt đối với nền kinh tế thực dân tương đối thuận lợi, song song với  việc cải tổ giáo dục nhằm xác lập căn cước dân tộc Việt Nam thời  hậu thuộc địa (xem chương 2 và 8 trong tập này).[9] Các nhà văn và  nghệ sĩ di cư từ miền Bắc kích thích nhiều luồng tư tưởng và phong  trào nghệ thuật mới, điển hình là tạp chí Sáng Tạo và tạp chí Bách  Khoa (xem chương 13).[10]

Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng, vai trò quá lớn của gia đình  Tổng thống Diệm, và những chính sách có vẻ thiên vị Công giáo  của chính phủ đã gây bất mãn sâu sắc trong giới tinh hoa chính trị.  Đáng lo ngại không kém, lực lượng cộng sản nằm vùng bắt đầu tấn công vào chính quyền cơ sở và giết hại nhiều viên chức địa phương  vào năm 1958 và 1959, cướp đi sinh mạng của hàng trăm người cán  bộ trung thành của chế độ cộng Hòa. [11] Mặc dù bạo động của cộng  sản ngày càng do Hà Nội chỉ đạo trực tiếp, nó cũng thể hiện một  phần sự bất mãn ngày càng tăng của giới tinh hoa miền Nam với  ông Diệm, đặc biệt là sau khi chính quyền thi hành một cuộc đàn áp hà khắc vào năm 1959. Trong năm đó, nhiều người từng tham gia  chống Pháp bị kết án là cộng sản và bị chính quyền giam giữ, tra  tấn, hoặc xử tử.

Đến năm 1960, tính chính danh của chính quyền Ngô Đình  Diệm bắt đầu bị khủng hoảng, với tình trạng bất ổn lan tràn ở nông  thôn và nhiều nhân sĩ chống cộng công khai chỉ trích chế độ ông  Diệm là độc tài. Mặc dù quân đội VNCH đã phản công và giành lại  thế chủ động trên chiến trường vào năm 1962, nhưng thành công  quân sự này bị lu mờ bởi những căng thẳng chính trị và một đợt tấn  công mới của cộng quân.[12] Mùa hè năm 1963 nổ ra nhiều cuộc biểu  tình của tăng ni Phật tử chống chế độ. Khi Tổng thống Diệm không  chịu làm theo những đòi hỏi cải tổ của Mỹ, Tổng thống Kennedy  và vài cố vấn của Tòa Bạch Ốc bí mật xui giục một cuộc đảo chính  quân sự tại miền Nam vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Ông Ngô  Đình Diệm cùng với em trai mình bị sát hại vào ngày hôm sau.

Cuộc đảo chính 1963 với hậu thuẫn của Cơ quan Tình báo Trung  ương Mỹ (CIA) dẫn đến bốn năm hỗn loạn chính trị. Một loạt các  tướng lãnh và chính trị gia thay nhau nắm quyền nhưng không ai giữ được lâu. Hà Nội nhân cơ hội này leo thang chiến tranh ở miền Nam  với mục tiêu giành chiến thắng cấp tốc. Chính phủ Mỹ lo ngại miền  Nam Việt Nam đang trên bờ vực sụp đổ nên chuẩn bị mở rộng sự can thiệp sau cuộc bầu cử Tổng thống năm 1964. Đáp lại, Moscow  và đặc biệt là Bắc Kinh không chậm trễ nhảy vào giúp đỡ Hà Nội  đối phó với Mỹ.

Mặc dù việc đưa quân đội Mỹ vào miền Nam năm 1965 giúp Sài  Gòn cứu vãn tình thế, tình thế này gây ra nhiều vấn đề mới và nguy  cơ lâu dài. Chiến tranh mở rộng làm nông thôn mất ổn định, buộc  hàng triệu người phải bỏ ra thành phố ở trong các khu nhà ổ chuột.  Của cải vật chất, nhân viên, và hàng tiêu dùng của Mỹ tràn vào Việt  Nam, cùng với viện trợ Mỹ tạo ra mất cân bằng lớn trong nền kinh  tế miền Nam (xem chương 1, 3 và 13). Ảnh hưởng văn hóa Mỹ gây  nhiều bất bình trong xã hội.

Phải đương đầu một lần nữa với những thách thức chồng chéo  ghê gớm, các nhà lãnh đạo và dân chúng miền Nam đã vực dậy một  cách khá bất ngờ. Một cuộc nổi dậy của tăng ni và tín đồ Phật giáo  ở miền duyên hải Trung Việt nổ ra vào năm 1966 đóng góp vào  một thay đổi chính trị quan trọng. Cuộc nổi dậy này buộc quân đội  phải nhượng quyền cho một chính quyền dân sự để khôi phục lại  tính chính danh đối với dân chúng và giành lại sự ủng hộ bấp bênh  của Mỹ. Nhờ vậy một hiến pháp mới và một quốc hội lưỡng viện  ra đời năm 1967. Một cuộc bầu cử tổng thống được tiến hành trong  cùng năm đó. Mặc dù nhiều người xem các thể chế chính trị mới  như một chiến thuật nguỵ trang để hợp pháp hóa sự cai trị của quân  đội, chúng giúp đem lại ổn định chính trị và tạo không gian cho tự do chính trị.

Sau bầu cử, chính quyền miền Nam đạt được tiến bộ không  ngờ với các phương pháp mới để quản lý kinh tế và ổn định xã hội.  Ở nông thôn, yêu sách đất đai lâu đời của tá điền được công nhận  và hợp pháp hóa theo sáng kiến của chính phủ (xem chương 4).  Dưới sự cai trị của các tướng lãnh, một xã hội dân sự sôi động vẫn  xuất hiện ở Sài Gòn, dẫn đến sự phát triển nở rộ trong nghệ thuật,  khoa học, và nhân văn (xem chương 13 và 14). Xã hội miền Nam  nồng nhiệt tiếp nhận công nghệ, hàng hóa vật chất và phương tiện  truyền thông của Mỹ, mặc dù có những cuộc tranh luận về văn  hóa và triết học về hiện tượng này. Chính phủ ông Nguyễn Văn  Thiệu nắm giữ quyền lực lớn, nhưng từ năm 1967 cho đến năm  1971 nó chấp nhận tiếng nói và vai trò của các đảng đối lập, nhất  là ở thành thị.

Cuộc tấn công Tết Mậu Thân của cộng sản năm 1968 là một  thử thách lớn cho thể chế chính trị miền Nam nhưng nó đã vượt qua  cuộc khủng hoảng phần lớn nguyên vẹn. Tết Mậu Thân tạo ra nên  một làn sóng đoàn kết chống cộng bồng bột và mạnh mẽ trong xã  hội. Cộng quân chịu tổn thất đáng kể do hỏa lực của Mỹ và do sức  đánh trả của quân đội Việt-Mỹ, tạo cho chính quyền Sài Gòn một cơ hội để giành lại vùng nông thôn. Sự tàn bạo của bộ đội cộng sản, đặc  biệt là vụ thảm sát gần 3.000 dân thường ở Huế, giúp người miền  Nam hiểu rõ cộng sản hơn, nhất là những người ở thành thị. [13] Từ đó  về sau, dân thành thị miền Nam đều bỏ chạy khỏi bất cứ nơi nào lực  lượng cộng sản tiến đến.

Tuy nhiên, Tết Mậu Thân gây chấn động cho dân chúng Mỹ do  đã nhiều năm bị chính phủ Johnson dối gạt về tình hình cuộc chiến.  Biến cố Tết Mậu Thân làm họ càng thêm nghi ngờ và dư luận ngày  càng đòi hỏi chính phủ Mỹ rút quân. Chiều ý công luận, Tổng thống  Richard Nixon bắt đầu rút quân Mỹ kèm theo việc mở rộng và trang  bị cho Quân lực VNCH (QLVNCH) để chịu phần lớn gánh nặng  chiến đấu (xem chương 3 và 7). Cách tiếp cận này dường như đã  đem đến kết quả khi vào năm 1972, một số đơn vị QLVNCH đẩy lùi  một cuộc tấn công vũ trang ồ ạt của cộng sản với sự hỗ trợ của hậu  cần và Không quân Mỹ. Tuy nhiên, viện trợ của Mỹ giảm đi trong  khi ngân sách quốc phòng tăng vọt khiến nền kinh tế miền Nam  vừa lạm phát vừa suy thoái cùng một lúc. Nhờ sự lãnh đạo của một  nhóm chuyên viên trẻ nền kinh tế miền Nam không sụp đổ (xem  chương 1, 3 và 4).

Nhưng dư luận thế giới đã hướng về phản chiến trong khi tranh  chấp trong hàng ngũ quân đội và nạn tham nhũng gia tăng. Xã hội  dân sự non nớt của miền Nam lại một lần nữa lâm vào thế đối đầu  với chính quyền. Cuộc bầu cử tổng thống năm 1971 đánh dấu một  bước ngoặt. Lần bầu cử này khác với lần năm 1967. Như Đại sứ VNCH tại Mỹ, Bùi Diễm, nhớ lại, lần này “nỗ lực hồi sinh quốc gia đã bị thay thế bằng mục tiêu củng cố quyền lực của một nhà độc  tài.” [14] Sau khi văn bản của Tổng thống Thiệu chỉ thị ngụy tạo kết  quả bầu cử rỉ ra ngoài, cả hai ứng cử viên phe đối lập rút lui để phản  đối. Bỏ qua ngay cả chỉ trích của những phe nhóm chống cộng, ông  Thiệu không hoãn bầu cử, nhấn mạnh rằng nó sẽ là một cuộc “trưng  cầu dân ý” đối với chính quyền do ông lãnh đạo. Màn độc diễn này  gây tổn hại lớn đến tính chính danh trong nước và quốc tế của chính  phủ Nguyễn Văn Thiệu trong nhiệm kỳ hai.

Ông Thiệu tái cử đúng như dự đoán, nhưng phải đối mặt với bất  mãn ngày càng tăng của công chúng và một cuộc đại tấn công của  cộng sản vào mùa xuân 1972. Để đối phó với tình thế mới, chính  phủ áp đặt các nghị định nhằm kiểm soát đảng đối lập và báo chí  chặt hơn (xem chương 12). Niềm lạc quan có chừng mực của năm  1967 bây giờ xen lẫn với lo lắng và tuyệt vọng. Đến giữa thập niên  1970, ngay cả những đảng nổi tiếng chống cộng từ miền Bắc di cư vào cũng xuống đường đòi Tổng thống Thiệu từ chức.

Trong khi đó, dân chúng Mỹ ngày càng ít ủng hộ chiến tranh,  gây áp lực buộc Washington và Sài Gòn phải đạt được thỏa thuận  với Hà Nội. Thỏa ước Paris năm 1973 – được đàm phán giữa Mỹ và  Bắc Việt cho phép để lại một lực lượng quân sự cộng sản quan trọng  ở miền Nam – điều này khiến chính phủ VNCH từ chối ký đến phút  cuối cùng. Trái với Thỏa ước, lực lượng để lại của miền Bắc tiếp tục  được bổ sung và được Trung Cộng và Liên Xô hỗ trợ vũ khí (xem  chương 5).

Sự phụ thuộc kinh niên của VNCH vào viện trợ, vũ khí và hỗ trợ không lực của Mỹ là một chỗ nhược dẫn đến cái chết của nó.  Mặc dù viện trợ kinh tế của Mỹ cho VNCH vẫn còn đáng kể cho  đến cuối cùng, bầu không khí chính trị thay đổi ở Washington đã  khiến Quốc hội Mỹ cắt giảm một nửa viện trợ và cấm bất kỳ hình  thức hỗ trợ quân sự nào cho VNCH vào năm 1974 – một sự trở mặt  đột ngột ít quốc gia nào trong hoàn cảnh của miền Nam Việt Nam  có thể gánh đỡ được.

Mặc dù công cuộc xây dựng quốc gia và nền cộng hòa ở miền  Nam Việt Nam chưa bao giờ có cơ hội được củng cố vững chắc, lý  tưởng cộng hòa có thật và rất cần thiết để giúp hiểu đúng bản chất  của cuộc chiến. Những người ủng hộ lý tưởng này thường chứng tỏ

một lòng hy sinh và ý chí dấn thân mà từ lâu chỉ được gán một cách  sai lầm cho riêng phe cộng sản. Bằng cớ là, không phải là hiếm  trường hợp những người theo lý tưởng cộng hòa ở miền Nam bị tù  đày dưới nhiều chế độ từ thời thực dân Pháp, đến giai đoạn quân đội  nắm quyền, và thời cộng sản cai trị sau năm 1975.

Dưới chính thể VNCH, cư dân thành thị miền Nam được hưởng  một môi trường tương đối tự do trong nhiều năm. Những hội đoàn  sinh viên, tôn giáo, dân sự hoặc các tổ chức chuyên nghiệp có quyền  tự trị. Họ đấu tranh quyết liệt để bảo vệ quyền này dù họ bị cộng sản  luôn tìm cách xâm nhập phá hoại và nếu cần thì ám sát những người  đứng đầu, dù họ bị theo dõi và quấy rối bởi chính chính phủ của họ.  Rút nguồn cảm hứng từ lý tưởng dân chủ và phong trào phản chiến  ở phương Tây, mệt mỏi vì chiến tranh, nhiều người miền Nam ủng  hộ việc tìm kiếm hòa bình. Các nhóm xă hội dân sự miền Nam bất  đồng với chính quyền sẵn sàng xuống đường để phản đối và đôi khi  họ đã tạo ra những thay đổi chính trị quan trọng. Nếu không luôn  luôn đạt được kết quả mong muốn, lý tưởng cộng hòa dù sao cũng  được phổ biến rộng rãi và mạnh mẽ. Nó đáng được xem xét nghiêm  túc mặc dù hầu hết các nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam cho đến  nay đã lơ là với hiện tượng này.

Hầu hết các chương trong sách bao gồm những hồi ức và trải  nghiệm về Việt Nam Cộng Hòa của các viên chức chính phủ và  dân thường. Các tác giả ghi lại những kỳ vọng và thách thức trong  nỗ lực xây dựng nền cộng hòa. Nỗ lực của họ chứng tỏ rằng sự cáo  chung của nền cộng hòa miền Nam Việt Nam năm 1975 không  phải là tiền định. Ngược lại, triển vọng của nó thăng trầm qua  dòng thời gian. Chúng tôi hy vọng quyển sách này bảo tồn cho hậu  thế tiếng nói của một thế hệ đã đóng một vài trò then chốt không  thể bỏ qua trong một cuộc giao chiến kịch tính và bi thảm nhất  của thế kỷ 20.

Tóm tắt nội dung sách 

Quyển sách này được chia thành năm chủ đề: phát triển kinh  tế; chính trị và an ninh; giáo dục; báo chí và truyền thông; văn hóa  và nghệ thuật. Phần một (chương 1-4) trình bày về ngân hàng, tài  chính và phát triển kinh tế. Cựu Tổng trưởng Bộ Thương mại và Kỹ

nghệ Nguyễn Đức Cường đưa ra một cái nhìn bao quát về những  thách thức chính mà lãnh đạo VNCH phải đối mặt trong hơn hai  thập kỷ để xây dựng một nền tảng cho tăng trưởng kinh tế. Ông Vũ Quốc Thúc mô tả những vấn đề phức tạp ông gặp phải trong quá  trình chuyển đổi chủ quyền quốc gia ngành tài chính ngân hàng từ thuộc địa Pháp sang Đệ nhất Cộng hòa. Ông Phạm Kim Ngọc, Tổng  trưởng Bộ Kinh tế thời Đệ nhị Cộng hòa, mô tả các nỗ lực của ông  để ngăn chặn thảm họa tài chính sau khi Mỹ bắt đầu rút quân vào  năm 1969. Và cựu Tổng trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông  thôn Cao Văn Thân kể lại những đóng góp của ông trong chương  trình Người Cày Có Ruộng và hiện đại hóa nông nghiệp vào đầu  thập niên 1970.

Chính trị và an ninh là chủ đề của Phần thứ hai (chương 5-7).  Có mặt trong các cuộc đấu tranh ngoại giao quyết định vận mệnh  của miền Nam Việt Nam, ông Hoàng Đức Nhã trình bày những khó  khăn khi đối đầu với chính quyền Nixon về việc ký kết Hiệp định  Paris. Ông Trần Minh Công kể lại những thách thức do chiến tranh  và bất ổn chính trị mà Cảnh sát Quốc gia phải đối mặt. Cuối cùng,  Bùi Quyền suy tư về kinh nghiệm của ông với tư cách là một người  lính tiền tuyến, trình bày đánh giá của ông về QLVNCH và những  trải nghiệm khi làm việc với các cố vấn Mỹ.

Phần thứ ba (chương 8-9) có các chương về giáo dục của Tiến  sĩ Nguyễn Hữu Phước và Tiến sĩ Võ Kim Sơn, hai giáo sư và viên  chức giáo dục vào thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông Nguyễn Hữu Phước  thảo luận về các nguyên lý triết học làm nền tảng cho hệ thống giáo  dục VNCH. Chương của ông bao gồm các chính sách phát triển  giáo dục ở cấp vĩ mô như các trường trung học toàn diện và cao  đẳng cộng đồng, cùng với việc cải cách phương pháp đào tạo giáo sư và thi trắc nghiệm cho kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Bà Võ Kim  Sơn tập trung vào kinh nghiệm cá nhân của bà với tư cách là giáo  sư ở các Trường Quốc gia Nghĩa tử, Trường Cao đẳng Sư phạm tại  Đại học Sài Gòn, và trường Công giáo Thánh Mẫu ở tỉnh Gia Định.

Trong phần thứ tư (chương 10-13), các nhà báo Phạm Trần, Vũ Thanh Thủy và Trùng Dương kể lại kinh nghiệm của họ về hoạt  động báo chí truyền thông thời VNCH. Là một nhà báo và biên tập  viên với sự nghiệp bao trùm cả Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, ông  Phạm Trần cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề lớn liên  quan đến tự do báo chí ở miền Nam Việt Nam, và cũng thảo luận  về chế độ kiểm soát báo chí ở Việt Nam ngày nay. Vũ Thanh Thủy  là một phóng viên chiến trường trẻ tuổi vào những năm 1970, và  chương của bà mô tả các quan sát chiến trường và vài trò của truyền  thông (cả miền Nam Việt Nam và quốc tế) trong chiến tranh. Nhà  văn Trùng Dương, là người đồng sáng lập nhật báo Sóng Thần ở Sài  Gòn vào những năm 1970, thảo luận về cách tờ báo đóng vài trò  giám sát tích cực ở thời cuối Đệ nhị Cộng hòa, và việc các nhà báo  dũng cảm phản đối khi họ nghĩ rằng chính phủ muốn bịt miệng họ.

Cuối cùng, phần thứ năm và phần cuối cùng bao gồm phần trình  bày của nhà văn Nhã Ca và nữ diễn viên Kiều Chinh. Cả hai tác giả tường thuật bối cảnh văn học và nghệ thuật sôi động và phong phú  ở miền Nam Việt Nam. Nhã Ca đặc biệt nhấn mạnh tự do sáng tác  các nhà văn được hưởng vào thời điểm đó, và những thách thức họ phải đối mặt trong và sau chiến tranh. Kiều Chinh tập trung chủ yếu  vào sự phát triển vượt bậc của điện ảnh dưới thời Đệ nhị Cộng hòa.  Chương của bà cũng mang đến những ký ức quý giá về sự phát triển  điện ảnh từ những năm đầu thế kỷ 20.

Các nhân vật thời VNCH có mặt trong sách có chuyên môn  và quan điểm khác nhau. Chúng tôi hy vọng tiếng nói đa dạng và  kinh nghiệm sâu sắc của họ góp phần vào sự hiểu biết tinh tế hơn  về xã hội miền Nam và chiến tranh Việt Nam. Hầu hết các tác giả

còn khá trẻ ở thời điểm các biến cố mà họ mô tả xảy ra. Hầu hết  thành niên hoặc bắt đầu sự nghiệp của họ dưới thời Đệ nhất Cộng  hòa. Họ đến từ tầng lớp tinh hoa và nhiều người được giáo dục ở phương Tây. Nhiều người bày tỏ niềm tin vững chắc vào các giá  trị tự do và một nền kinh tế tư bản tư nhân; nhiều người đã lạc  quan về tương lai của VNCH cho đến phút cuối. Họ phải đối mặt  với những thách thức lớn trong công việc do chiến lược thay đổi  của Mỹ, do mối đe dọa của cộng sản hay do chính sách đàn áp của  chính chính phủ của họ.

Nhìn rộng hơn, bài viết của họ cho thấy người miền Nam Việt  Nam trong vai trò chủ động xây dựng một quốc gia mới – một công  tác liên tục và có lúc dường như rất khả thi. Hiện lên qua các bài  viết khác nhau là một VNCH với hiến pháp chứa đựng các giá trị

tự do, với những tổ chức dân cử có thực quyền, với lực lượng quân  đội và cảnh sát hiện đại, với bộ máy kỹ trị điều hành nhà nước, với  hệ thống giáo dục và kinh tế năng động, với những nhà báo sống  chết với nghề và một cộng đồng văn nghệ sĩ sống động. Bức tranh  chung là một xã hội có chung nỗ lực thiết lập các thể chế cộng hòa  vượt lên những chia rẽ về địa phương, tôn giáo và chính trị. Mặc  dù họ có quan điểm chính trị khác biệt và đôi khi trái ngược nhau,  nhiều người trong số những tác giả có cùng viễn kiến về một quốc  gia không có chiến tranh, không có chế độ cộng sản hay độc tài, và  không có sự can thiệp của nước ngoài – dù là Pháp, Mỹ, Nga hay  Trung Cộng.

Một số tác giả đưa ra quan điểm riêng về đối thủ cộng sản và  đồng minh Hoa Kỳ, cũng như tìm cách giải thích sự sụp đổ của miền  Nam Việt Nam. Các tác giả này coi cộng sản Bắc Việt Nam là một  phần của khối cộng sản quốc tế với mục tiêu áp đặt chế độ cộng sản  trên toàn cõi Việt Nam. Họ thừa nhận uy tín của nhà lãnh đạo Bắc  Việt Hồ Chí Minh, nhưng coi lợi thế chính của phe cộng sản là ở kỹ năng chiến tranh tâm lý và sử dụng bạo lực.

Nhận định của các quan chức hay quân sự của chính phủ VNCH  đối với người Mỹ có cả khen chê. Hỗ trợ của Mỹ được ghi nhận,  nhưng một số tác giả có vấn đề với thái độ hách dịch của một số quan chức và cố vấn Mỹ. Các nhà báo và nhà giáo dục miền Nam  Việt Nam ngưỡng mộ các giá trị và thể chế của Mỹ, nhưng có người  bất bình với thái độ của truyền thông Mỹ đối với VNCH.

Một số tác giả tin rằng việc cắt giảm viện trợ Mỹ sau năm 1973,  trong lúc phe cộng sản tiếp tục nhận được sự ủng hộ hoàn toàn từ đồng minh Liên Xô và Trung Cộng, dẫn đến sự sụp đổ của miền  Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1975. Năm tác giả ở lại Việt Nam  sau ngày đó và ba người trong số họ đã bị giam giữ trong các trại tù  cải tạo, người lâu nhất đến 13 năm. Dù có bị cộng sản trả thù hay  không, một số tác giả cảm thấy chính nghĩa của họ được sáng tỏ qua  những gì chúng ta biết đã xảy ra ở Việt Nam trong thời hậu chiến.

Các tác giả bị hạn chế nhiều về thời gian, tình trạng sức khỏe,  và trí nhớ. Trong vai trò biên tập viên, chúng tôi yêu cầu họ kể lại  mọi việc theo sự hiểu biết tốt nhất của họ, sau đó kiểm tra các sự kiện trong chừng mực có thể, và giúp họ tuân theo các tiêu chuẩn  của một bài viết học thuật. Tuy nhiên, cần phải nói là chúng tôi  đánh giá cao những bài viết của họ không chỉ như nguồn tài liệu về các sự kiện cụ thể mà còn vì chúng thể hiện quan điểm và tình cảm  của người viết. Những quan điểm và tình cảm này có thể công bằng  hoặc thiên vị, đúng hoặc sai; nhưng quan trọng hơn, chúng cho phép  độc giả hiểu được về giai đoạn khó khăn nhưng nhiều hứng khởi  trong đó các tác giả đã đóng một vai trò quan trọng.

Để đặt câu chuyện trong bối cảnh thích hợp và tăng thêm giá trị cho bài viết của những người đã trực tiếp tham gia xây dựng quốc  gia thời VNCH, chúng tôi nhờ hai sử gia trẻ là người Mỹ gốc Việt  viết hai chương bổ sung. Chương 14 của Trần Nữ-Anh là giáo sư của University of Connecticut giải thích tại sao VNCH bị lãng quên  trong ký ức lịch sử Mỹ và kêu gọi cộng đồng người Việt di tản giúp  đỡ giải quyết vấn đề này. Chia sẻ quan điểm của chúng tôi về tầm  quan trọng của ký ức, giáo sư Nữ-Anh kêu gọi “những người từng  sống dưới thời Việt Nam Cộng Hòa viết hồi ký, cho phỏng vấn, và  chia sẻ những kỷ niệm của họ.” Theo bà Nữ-Anh, sự giúp đỡ quan  trọng nhất của cộng đồng là cung cấp nguồn tài liệu gốc cho các sử gia – đây cũng chính là mục đích của chúng tôi khi làm sách này.  Ngoài ra, bà khuyên cộng đồng nên hỗ trợ các nghiên cứu về Việt  Nam, khuyến khích con cháu họ theo học các ngành nhân văn và  khoa học xã hội, và hỗ trợ tự do tư tưởng.

Trong chương 15, Tuấn Hoàng, giáo sư của Pepperdine  University, bàn về quan điểm của giới sử học về giá trị cũng như hạn chế của hồi ký cá nhân. Giáo sư Tuấn cũng điểm một số cuốn  hồi ký quan trọng viết bằng tiếng Việt của nhiều nhà lãnh đạo chính  phủ và xã hội dân sự của VNCH. Những vị này không có bài viết  trong sách này nhưng họ không kém phần nổi bật. Hồi ký của họ đã được xuất bản ở Mỹ nhiều năm trước nhưng giới học giả hầu  như không sử dụng đến. Bài của ông Tuấn không chỉ giúp cung cấp  bối cảnh rộng hơn cho những bài viết trong sách này mà còn chỉ ra  rằng những chủ đề chính trong những cuốn hồi ký có rất nhiều điểm  tương đồng với quan điểm của chúng tôi đã nêu ở trên về những  thách thức đối với nỗ lực xây dựng quốc gia VNCH. Những chủ đề này bao gồm sự viện dẫn bạo lực cộng sản để giải thích các chính  sách chống cộng khắc nghiệt trong những năm đầu của thời Ngô  Đình Diệm, những bất đồng quan điểm của người Việt quốc gia về Đệ nhất Cộng hòa, và xu hướng đánh giá tích cực hơn về Đệ nhị Cộng hòa. Các hồi ký cho thấy những giá trị xã hội tư sản thể hiện  dưới thời VNCH đã thu hút sự ủng hộ của nhiều người Việt thời đó  và là nguồn hoài niệm của nhiều người Việt ngày nay.

Kết luận 

Từ lâu nay chiến tranh Việt Nam được hiểu như là một cuộc  xung đột chủ yếu giữa một bên là Mỹ còn bên kia là một dân tộc  Việt Nam đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Tính chất  nội chiến của cuộc chiến tranh giữa người Việt với nhau thường bị

xem nhẹ bởi giới học giả. Họ một mặt thổi phồng tầm quan trọng  của Mỹ; mặt khác tin rằng đại đa số người Việt ủng hộ cộng sản.

Nhưng các công trình nghiên cứu mới kể từ khi kết thúc Chiến  tranh Lạnh cho thấy các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam tin vào học  thuyết cộng sản hơn là chủ nghĩa dân tộc thực dụng, khác hẳn với  giới lãnh đạo miền Nam.[15] Đồng thời, các nhà sử học đã lần theo dấu vết của chủ nghĩa cộng hòa từ thời kỳ đầu thế kỷ XX khi Việt Nam  còn là thuộc địa Pháp.[16] Chủ nghĩa này được nhiều nhóm chính trị ủng hộ và sau này làm nền tảng của chế độ cộng hòa của miền Nam  Việt Nam. Không chỉ là cuộc chiến tranh ủy nhiệm thời Chiến tranh  Lạnh, xung đột giữa cộng sản và cộng hòa ở Việt Nam đã không thể hòa giải được từ lâu trước khi Mỹ bắt đầu can thiệp, và nó còn tồn  tại dai dẳng giữa người Việt trên quy mô toàn cầu cho đến tận ngày  nay. Những người theo đuổi mục tiêu xây dựng quốc gia cộng hòa  học hỏi từ truyền thống tư tưởng Việt Nam và kịch liệt chống lại sự can thiệp của nước ngoài, nhất là từ Washington. Họ cần Mỹ giúp  đỡ nhưng nỗ lực để bớt phụ thuộc vào Mỹ. Nguồn gốc ý thức hệ của  cuộc nội chiến ở Việt Nam và vai trò quan trọng của người quốc  gia miền Nam trong lịch sử không cho phép chúng ta coi nhẹ kinh  nghiệm xây dựng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi hoan  nghênh độc giả cùng tham gia khám phá kinh nghiệm đó trong các  chương tiếp theo.

Chú thích


1. Những ví dụ gần đây về công trình nghiên cứu loại này là: Andrew J.  Gawthorpe, To Build as well as Destroy: American Nation Building in South  Vietnam (Ithaca: Cornell University Press, 2018); Jessica Elkind, Aid Under  Fire: Nation-Building and the Vietnam War (Lexington: University Press of  Kentucky, 2016); James Carter, Inventing Vietnam: The United States and  State Building, 1954-1968 (New York: Cambridge University Press, 2008);  Christopher T. “Nation Building and the Vietnam War,” Pacific Historical  Review 74, no. 3, (2005): 441-56; Jefferson P. Marquis, “The Other Warriors: American Social Science and Nation Building in Vietnam,” Diplomatic History 24, no. 1 (2000): 79-105.

2. Ví dụ, Geoffrey Stewart, Vietnam’s Lost Revolution: Ngô Đì nh Diệ m’s Failure  to Build an Independent Nation, 1955-1963 (New York: Cambridge University  Press, 2017); Phi Vân Evelyne Nguyễn, “Fighting the First Indochina War  Again? Catholic Refugees in the Republic of Vietnam, 1954-1959,” Sojourn 31,  no. 1, 207-246; Van Nguyen-Marshall, “Student Activism in Time of War: Youth  in the Republic of Vietnam, 1960s-1970s,” Journal of Vietnamese Studies, 10,  no. 2 (Summer 2016); Edward Miller, Misalliance: Ngô Đì nh Diệ m, the United  States, and the Fate of South Vietnam (Cambridge, MA: Harvard University  Press, 2013); Jessica Chapman, Cauldron of Resistance: Ngô Đình Diệm the  United States, and 1950s Southern Vietnam (Ithaca: Cornell University Press,  2013); and Philip Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in  Vietnam (Lawrence, KA: University Press of Kansas, 2002). Một số nghiên cứu  gần đây là luận án tiến sĩ chưa được xuất bản, ví dụ: Sean Fear, “The Rise and  Fall of the Second Republic: Domestic Politics and Civil Society in U.S.-South  Vietnamese Relations, 1967-1971” (PhD dissertation, Cornell University, 2016);  Nu-Anh Tran, “Contested Identities: Nationalism in the Republic of Vietnam  (1954-1963)” (PhD dissertation, University of California-Berkeley, 2013); và  Tuan Hoang, “Ideology in Urban South Vietnam, 1950-1975” (PhD dissertation,  University of Notre-Dame, 2013).

3. Về hiệu suất của Quân Lực VNCH trong các trận chiến này, xem Andrew  Wiest, Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN (New  York: New York University Press, 2008); Lam Quang Thi, Hell in An Loc: The  1972 Easter Invasion and the Battle that Saved South Vietnam (Denton, TX:  University of North Texas Press, 2009); George Veith, Black April: The Fall  of South Vietnam, 1973-1975 (New York: Encounter Books, 2012).

4 Ban tổ chức gồm Vũ Tường, Peter Zinoman, Sarah Maxims, Nguyễn Đức  Cường, Hoàng Đức Nhã và Trần Quang Minh. Ban tổ chức chúng tôi mang  ơn những lời khuyên, sự hợp tác và hỗ trợ của Phan Công Tâm, Nữ-Anh Trần,  Trùng Dương, Bùi Văn Phú, và Trần Văn Sơn. Ban tổ chức cũng mang ơn rất  nhiều sự giúp đỡ của Nguyễn Nguyệt Cầm, Trần Hạnh, Alex-Thái Võ, Lưu  Trinh và Kevin Li, cho buổi họp.

5 Độc giả quan tâm nên tham khảo hồi ký phong phú của hai vị này. Riêng ông  Lâm Lễ Trinh đã đưa lên youtube rất nhiều video thu lại các cuộc phỏng vấn của  ông với nhiều nhân vật đặc biệt của VNCH. Về hồi ký, xem Lâm Lễ Trinh, Thức  tỉnh: Quốc Gia và Cộng sản (tác giả tự xuất bản, 2007); Huỳnh Văn Lang, Ký ức  Huỳnh Văn Lang (tác giả tự xuất bản, 2012), 2 tập.

6. Một hội thảo tương tự nhưng nhỏ hơn – đã truyền cảm hứng cho hội thảo của  chúng tôi – được triệu tập tại Cornell University vào năm 2012, dẫn đến việc  xuất bản quyển Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967- 1975) do Keith Taylor biên tập (Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Program  Publications, 2014). Giáo sư Keith Taylor, nhà sử học chuyên về cổ và trung  đại Việt Nam, đã tổ chức hội thảo này.

7. Xem thêm Norbert Kersting, “Nation-Building,” trong Bertrand Badie, Dirk  Berg-Schlosser and Leonardo Morlino, eds. International Encyclopedia of  Political Science v. 5 (New York: SAGE Publications, 2011), tr. 1645-1650;  Francis Fukuyama, “Nation-Building and the Failure of Institutional Memory,”  trong Francis Fukuyama, ed. Nation-Building: Beyond Afghanistan and Iraq

(Baltimore: Johns Hopkins University Press, 2006), tr. 1-16.

8. Christopher Goscha, Vietnam: A New History (New York: Basic Books, 2016),  tr. 260.

9. Xem Olga Dror, Making of Two Vietnams War and Youth Identity, 1965-1975 (Cambridge University Press 2018).

10. Xem Võ Phiến, Văn Học Miền Nam Tổng Quan (Westminster, CA: Văn Nghệ Publishers, 2000).

11. Miller, Misalliance, tr. 200.

12. David Elliott, The Vietnamese War: Revolution and Social Change in the  Mekong Delta 1930-1975, v. 1 (New York: M. E. Sharpe, 2003), tr. 407-424;  Miller, Misalliance, tr. 249-251.

13. Olga Dror, “Giới thiệu của dịch giả,” in trong Nhã Ca, Giải khăn sô cho Huế:  Chuyện về trận chiến ở Huế, Việt Nam năm 1968 (Bloomington, IN: Indiana  University Press, 2014), tr. xxxi.

14. Bùi Diễm, In the Jaws of History (Boston: Houghton Mifflin, 1987), tr. 293.

15. Ví dụ, xem Vũ Tường, Vietnam’s Communist Revolution: The Power and  Limits of Ideology (New York: Cambridge University Press, 2017).

16. Ví dụ, xem Goscha, Vietnam, chương kết luận; Peter Zinoman, Vietnamese  Colonial Republican: The Political Vision of Vũ Trọng Phụng (Berkeley:  University of California Press, 2014); Nu-Anh Tran, “Contested Identities”;  Tuan Hoang, “Ideology in Urban South Vietnam.”

Continue Reading

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ