Connect with us

Văn hóa xã hội

Văn học chấn thương – Đọc “Gia đình” của Phan Thúy Hà (phần 3)

Nguyễn Lương Hải Khôi

Published on

Văn học chấn thương – Đọc “Gia đình” của Phan Thúy Hà (phần 1phần 2, phần 3)

Nguyễn Lương Hải Khôi

Tòa án Cải cách ruộng đất 

Các nhân chứng trong “Gia đình” phần lớn thuộc Nghệ Tĩnh, trừ nhân chứng cuối cùng ở Nam Định. Trong chiến tranh Việt Pháp, Nghệ Tĩnh là vùng Pháp không kiểm soát. Chính phủ Việt Minh kiểm soát phần lớn vùng này, nhưng khi Cải cách ruộng đất nổ ra, đây là nơi có nhiều người bị vu cáo và thanh trừng nhất. 

Các nhân chứng trong những câu chuyện của Phan Thúy Hà thuộc nhiều nhóm khác nhau, có khi là nông dân, cũng nghèo khổ như người đấu tố mình, có khi là gia đình quý tộc thời trước, như con cháu Thượng thư Cao Xuân Dục, Bộ trưởng Đặng Văn Hướng… Họ ngay từ 1945 đã đi theo tiếng gọi của Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Có người kinh doanh, tích lũy được một hộp vàng, đem hiến tặng ngay cho chính phủ khi có lời kêu gọi “Tuần lễ vàng”. Gần đến ngày chiến thắng, một cơn sóng thần kinh hoàng ập đến, không phải từ phía Pháp mà từ chính đồng bào và chính quyền mình phục vụ. 

Nghe lời kể các nhân chứng, chúng ta cảm nhận được một cảm xúc rõ ràng dù không nói nên lời: Họ không hiểu vì sao chính những người nông dân vốn hiền lành, chất phác, nhiều người từng được họ cứu giúp lúc hoạn nạn, bỗng đột nhiên trở nên tàn ác, man rợ như quỷ dữ, khi họ xuất hiện trong các tòa án Cải cách ruộng đất và cả sau đó nữa. 

Ký ức lịch sử của những con người nhỏ bé trong “Gia đình” cung cấp cho chúng ta ngày nay một bức tranh chung về những tòa án trong Cải cách ruộng đất thập niên 1950 ở miền Bắc. Đó không phải là một tòa án theo cách kiểu của văn minh nhân loại. Đó là một không gian xã hội nơi con người bị không còn bất  kỳ ràng buộc nào về đạo đức và luật pháp. Các giá trị của đạo đức và pháp quyền mà nhân loại xây dựng từ khi bắt đầu bước vào văn minh đã hoàn toàn bị xóa bỏ, chỉ trong một khoảnh khắc, con người quay trở lại kỷ nguyên hoang dã.

Nhân chứng Trần Lệ:

“Trống ba hồi chín tiếng. “Lôi cổ tên địa chủ Trần Khiên ra đây”. “Ngẩng mặt lên trời”. Đêm đấu tố bắt đầu.

Trời đã gần về sáng. Không còn ai hăng hái. Không ai lên đấu nữa. Đội hỏi: Giờ theo bà con nên xử thế nào? “Một cái mọ tro cho xong”. Tôi giật thót, quay xuống nhìn người vừa nói câu đó. Một người ở cùng làng. Anh ta có hận thù gì nhà tôi đâu. “Một cái mọ tro” có nghĩa là “một viên đạn”. Anh muốn cha tôi bị xử bắn.

Cha đứng dưới mái chuồng lợn. Một sợi dây thừng nối từ chỗ trói tay buộc vào gốc cây. Hai cánh tay trói sát sườn. Bàn tay vẫn cử động được. Chị em tôi ra với cha. Tôi bưng bát cơm mời cha. Bàn tay cha giơ ra đón. Sợi dây trói giật mạnh. Bát cơm rơi xuống. Người dân quân đứng trong bụi cây cầm sợi dây hả hê đứng nhìn. Bát không vỡ. Cơm đổ ra.

Cha ngồi xuống, nhặt từng hạt cơm vào miệng. Hôm sau. Trống ba hồi chín tiếng. Mẹ và bảy đứa con ra đứng bên đường. Đợi cha đi qua. Nhìn theo. Cha quay lại nhìn các con. Cha muốn nói điều gì. Trống ba hồi chín tiếng. 

Ba năm sau tôi cùng mẹ lên nghĩa địa trại giam đưa cha về. Tôi chạm tay vào hộp sọ.Tôi bê lên. Tôi gọi thầm.” 

Nhân chứng Phan Thị Tứ:

Một cái dây tròng vào cổ. Xác cha tôi bị kéo đi từ trường cơ bản xuống Bến Nại. Đoạn đường đá lởm chởm. Đá chọc vào da thịt. Da thịt găm vào mỏm đá sắc. Con mương dài là lối trâu đi ra đồng. Xác cha nằm đó. Giữa lối trâu đi. Xác ông Long cũng nằm đó, úp mặt, trong con mương. Ông Long bị bắn vào buổi sáng. Hai người làng Châu Hạ. Chị tôi điên dại khi nghe kể lại. Chị lên cơn đau tim. Chị ra đi khi tuổi đời còn trẻ.

Chúng ta hãy thử giải mã cơ chế làm cho những nông dân chất phác hiền lành bỗng chốc thành ác quỷ trong cuộc cách mạng đó. 

Như một mẫu số chung, thập niên 1970, ở châu Âu, có một nghệ sỹ khác, Marina Abramovic, cũng sinh ra và lớn lên trong khối cộng sản chủ nghĩa giữa thế kỷ 20 (Nam Tư), thực hiện một tác phẩm nghệ thuật thuộc thể loại “nghệ thuật trình diễn” (performance art), “Rhythm 0” (tạm dịch là “Nhịp điệu số 0”) năm 1976 ở Naples, Italia, nhưng cũng cho chúng ta thấy cùng một thông điệp với cuốn sách “Gia đình” của Phan Thúy Hà. Diễn biến của các phiên Tòa trong Cải cách ruộng đất, trong hồi ức của các nạn nhân, giống như diễn biến của nhân cách con người trong tác phẩm nghệ thuật trình diễn “Rhythm 0” mà Marina Abramovic đã làm cho lộ ra. 

Marina mời khán giả tham gia vào tác phẩm, và giống như “Gia đình” của Phan Thúy Hà, khán giả vừa tham gia tạo nên tác phẩm, vừa trở thành một phần của tác phẩm. Nghệ sỹ Marina cung cấp 72 đồ vật như cành hoa hồng có gai, dây xích, dao, kéo, súng đã nạp đạn, búa, rìu… cho công chúng và đặt ra một cam kết: Họ có thể làm bất kỳ điều gì họ muốn trên cơ thể cô mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy định pháp lý hay đạo đức nào.  

Theo nhà phê bình nghệ thuật Thomas McEvilley, người quan sát buổi trình diễn,  “ban đầu nó diễn ra khá là bình thường”, nhưng “đến giờ thứ ba, tất cả quần áo của cô đã bị cắt khỏi người bằng dao cạo. Đến giờ thứ tư, những lưỡi dao tương tự bắt đầu khám phá làn da của cô. Cổ họng của cô đã bị rạch để ai đó có thể hút máu. Nhiều vụ tấn công tình dục […] khác nhau đã được thực hiện trên cơ thể cô ấy… Khi một khán giả chọn khẩu súng đã nạp đạn chĩa vào đầu Marina và đưa ngón tay của cô ấy xoay quanh cò súng, một cuộc ẩu đả nổ ra giữa các phe khán giả.”

Đương thời, tác phẩm gây chấn động cho công chúng nghệ thuật phương Tây, bao gồm cho cả chính người tham gia vào tác phẩm, vì nó phơi bày một sự thực trong tinh thần và cách tổ chức xã hội người. Trong một không gian xã hội khi không còn tinh thần luật pháp và đạo đức, khi người ta vẫn được an toàn khi làm điều ác, những người lương thiện nhất cũng trở thành ác quỷ

Dưới đây là một vài hình ảnh của tác phẩm “Nhịp điệu số 0” của Marina Abramović. Ảnh: Guggenheim Museum.

Những dụng cụ Marina Abramović đặt ra trong phòng trình diễn.

Những tác động êm ái ban đầu của khán giả lên người cô Marina: người ta đặt hoa hồng lên tay cô, gắn những bức ảnh lên người cô.

Nhưng khi người ta thực sự thấy an toàn khi làm điều ác: Cô bị lột áo và tấn công tình dục.

Người nghệ sỹ đau đớn chịu đựng nhiều giờ đồng hồ những ý tưởng dã man của công chúng khi họ được cam kết đứng ngoài vòng kiểm soát của đạo đức và pháp luật.

“Nhịp điệu số 0” của Marina, tương tự như “Gia đình” của Phan Thúy Hà, không có ý định “tố cáo” một điều gì. Nó không nhắm đến một câu chuyện chính trị nào. Nó vượt xa tất cả những thông điệp ngắn hạn và bó hẹp đó.

“Nhịp điệu số 0” chỉ dùng một thí nghiệm tinh thần để giúp con người nhìn thấy một cách trực quan sự nguy hiểm của con người khi bước vào cách tổ chức xã hội thả lỏng phần “con” của họ. Ở “Gia đình” của Phan Thúy Hà, ký ức của các “sử gia dân đen” cũng cho chúng ta thấy một sự thực tương tự. Trong tòa án Cải cách ruộng đất, “phạm nhân” càng cam chịu và nhận tội, các quan tòa bần cố nông càng say máu và tàn ác.

Tuy nhiên, khi “phạm nhân” phản kháng, có khi họ bị trả thù nặng nề hơn, nhưng cũng có khi sự phản kháng ấy làm đám đông chùn bước. Truyện số 8: Nguyễn Ngọc Lập:

Tôi nghe kể rằng mẹ tôi tinh thần vững vàng lắm khi bị đưa ra đấu tố. Họ bắt mẹ cúi đầu mẹ không cúi đầu. Bắt mẹ xưng con với ông bà nông dân mẹ không xưng con. Họ nói gì mẹ cũng im lặng. Tới khuya, dân quân giải mẹ về. Về tới nhà, mẹ đứng ở thềm chửi đổng. Dân quân quay vào. Chúng nó có đánh đập mẹ không? Tôi gặng hỏi. Đừng nhắc chuyện này nữa con. Hay ho gì. Thế mẹ có ghét đứa nào trong làng không? Mẹ không ghét đứa nào. Tha cho chúng nó đi con.

Con người khi được trao quyền lực trong bối cảnh không có sự cân bằng và kiểm soát của đạo đức và quyền lực, họ bất ngờ trở nên tàn bạo, như quay về giai đoạn phi lý tính của tuổi thiếu niên. Khi trở lại cuộc sống bình thường, một số họ không hiểu nổi con người mình trong bầu không khí “đặc thù” khi đó. Trong “Gia đình”, có những bần cố nông quay trở lại hối hận và đau khổ vì tội ác của mình, gặp lại gia đình nạn nhân để tạ lỗi. Nhân chứng Phan Thị Tứ:

Hai ông cốt cán bị đưa ra nhà tù ngoài huyện Thanh Chương. Sáu tháng sau được về, người cốt cán họ hàng mang một cơi trầu xuống gặp mẹ tôi. Ông khóc. Bác tha tội cho con. Con sợ bị bắn như ông Hỏa. Con khai ông là chủ mưu. Ông đã thuật lại cho chúng tôi biết buổi chiều mưa lụt ngày hôm đó.

Địa ngục vô gian

“Địa ngục vô gian” là một cách nói Phật giáo, chỉ cảnh khổ đau kéo dài như vô tận, cái này tiếp nối cái kia, không có khoảng dừng. “Nhịp điệu số 0” của Marina Abramović chỉ kéo dài 6 giờ. Còn Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam không phải là một thảm họa bùng lên một thời gian ngắn rồi mất.

Dù Đảng Lao động (Cộng sản) Việt Nam tuyên bố sửa sai, thực chất họ chỉ dừng các chiến dịch đấu tố. Những nhà văn Nhân văn Giai phẩm, hay những trí thức độc lập như Nguyễn Mạnh Tường, lên tiếng phê phán sự tối tăm và vô nhân đạo của Cải cách ruộng đất đều bị trừng phạt, trả thù tàn nhẫn.

Não trạng vận hành cuộc Cải cách ruộng đất đó còn nguyên trong hệ thống xã hội qua nhiều năm và tiếp tục gieo rắc tai họa. Các chiến dịch đấu tố không còn, nhưng tinh thần của nó còn tiếp tục đưa người ta vào cõi chết. Có nhiều câu chuyện về những cái chết sau Cải cách ruộng đất trong bối cảnh tinh thần đáng sợ đó.

Nhân chứng Đoàn Thị Mỹ:

Tháng mười một trời rét căm căm, một buổi trưa bà tôi run rẩy trong chiếc váy đụp ôm chiếc vò. Ngang qua chuồng bò bà dừng lại. Bà khụy xuống, máu bên sườn chảy ra, miếng cơm tuột khỏi tay bà. Thằng Kỷ, con một cố nông, ngồi trên cây bưởi chờ bà đi qua. Nó biết giờ này bà ghé vào mái chuồng bò. Viên gạch ném trúng vào sườn. Anh chị chạy ra dìu bà về.

(…)

Sáng hôm anh tôi chạy sang lay tôi dậy. Mị ơi bà chết rồi.

Bà chết vì rét hay vì đói. Từ hôm bị trúng viên gạch thằng Kỷ bà nằm một chỗ. Ba năm sau bốc mộ bà thấy hai chiếc xương sườn bị gãy.

Nhân chứng Ngô Việt:

Ê con địa chủ, con địa chủ. Tan học là tôi chạy. Cả đám rượt đuổi. Đuổi theo về nhà. Đánh chết thằng con địa chủ này. Tôi chui vào cũi bếp. Tôi ngồi co ro trong cũi bếp. Chúng bỏ về từ lâu rồi, không còn tiếng nháo nhác xung quanh, tôi vẫn không dám bò ra. Hôm sau, tôi chạy không nổi nữa, một thằng tóm được. Nó lấy một quả khế chấm vào phân trâu bắt tôi ăn. Tôi ngậm miệng, một đứa giữ đầu, một đứa banh miệng tôi ra, nhét miếng khế chấm phân trâu vào. Thằng con địa chủ, không ăn tao đánh chết. Tôi nhai. Vờ như đã nuốt. Đợi chúng bỏ đi. Anh trai tôi biết hết những chuyện này. Từ mai em ở nhà anh dạy (…) 

Chuẩn bị đi B tôi nhận được thư cha. Trường Đại học Sư phạm Vinh gửi giấy đi học. Tôi cầm lá thư cha viết mà nước mắt rơi. Đi B hay về nhà đi học. Qua phút yếu lòng tôi lấy tinh thần. Quanh tôi là anh em đồng đội. Đứa trẻ sống trong sợ hãi. Tuổi thiếu niên không thoát ra được nỗi mặc cảm là con địa chủ tù tội. Vào chiến trường tôi thành người mạnh mẽ. Mặt trận chỉ có sống và chết. Mặt trận không có thành phần. Hết chiến tranh, trở về cuộc sống đời thường, tâm tư đứa con địa chủ làm khổ tôi. Trong lòng tôi luôn có nỗi buồn. Người ta vui nhưng tôi không sao vui được. Lúc nào cũng mang nỗi sợ. Sợ mà không biết là sợ gì. Nghe một chuyện gì đó người ta chưa sợ tôi đã sợ rồi. 

Nhân chứng Võ Thị Thấy

Cơn đói và cơn rét. Cha không bước nổi. Cha thả gánh nứa vào một nhà bên đường xin hơ lửa. Chủ nhà cho ngồi bếp. Giọng cha run cầm cập, cho tôi xin một bát cơm.

Nhà người ta ăn cơm rồi nhưng vẫn nấu một niêu cơm cho riêng cha. Thảm thương cho cha tôi, vào đúng ngôi nhà dân quân đang họp. Một dân quân đi vào bếp phát hiện ra cha tôi.

– Thằng địa chủ sao cho vào đây?

Người chủ nhà tốt bụng nhưng nỗi sợ hãi lớn hơn. Niêu cơm trên bếp vừa sôi. Họ châm cho cha một bó đuốc. Bảo cha đi ra khỏi đây ngay.

Sáng hôm sau người ra đồng thấy một xác chết bên cầu Ngả Hai. Phủ trên thân xác là quần đùi áo mỏng. Bàn tay buông ra bó đuốc cháy dở.

(…)

Ông (chồng của người kể chuyện) đột nhiên đổ bệnh. Người ta gọi là bệnh nói nhảm. Nửa đêm ông ngồi dậy và nói một mình. Các con không hiểu ông nói gì.

Chỉ mình tôi hiểu những điều ông nói ra. Chỉ mình tôi hiểu là ông không nói nhảm.

Số phận của trẻ em

Bản thân các nhân chứng kể chuyện cho Phan Thúy Hà phần lớn vẫn đang ở tuổi thiếu niên hoặc nhỏ hơn, khi Cải cách ruộng đất nổ ra bảy thập niên trước. Trong “Gia đình”, hình ảnh đọng lại sâu nhất trong lòng người đọc có lẽ là trẻ em. Chúng chứng kiến cha mẹ bị giết, bị chết, bị đày đọa, chứng kiến anh chị hay em mình chết đói, và bản thân chúng chết vì đói. Chúng không có khả năng chống đỡ trước cơn sóng thần đỏ của người lớn, cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. 

Nhân chứng Nguyễn Công Hà:

Tôi đi vào sân. Sao nhiều vôi bột quanh sân thế này. Anh Kha đi ra. Anh khóc nấc lên. Cháu Uyển mất rồi. Cháu Uyển đi mót, uống nước ruộng, bị dịch tả. Cháu Uyển, con gái đầu của anh Trạm. Anh Kha khóc vì bất lực. Anh Trạm đã bị xử bắn. Sau bốn năm ở tù, vào đợt cải cách cuối cùng. Chị dâu đã chết. Trên cánh đồng. Trong tay chị là cái que chọt rau má. Thằng bé út vẫn bám trên lưng mẹ như một con nhái.

Mẹ chết ngày hôm nay. Ngày hôm sau cha bị đưa ra pháp trường lãnh án tử hình. Chúng tôi đã không cưu mang được các con của anh chị.

Đối với trẻ em, cái chết của con chó thân thiết với tuổi thơ cũng là một chấn thương tinh thần không khác cái chết của người thân ruột thịt.

Em gái tôi ôm con He vỗ về. Trên mình nó có một vết chém, máu đã khô. Nhoài ra khỏi tay em gái, He lại nhay nhay gấu quần tôi. Tôi hiểu ý, đi theo nó. 

Trưa nay, khi cha mẹ tôi bị trói đi con He đã đi theo. Giờ nó về dẫn tôi đi thăm cha mẹ. Tôi theo nó đến trước một ngôi nhà, đứng từ xa nhìn vào. Trong ánh sáng lờ mờ chập tối, tôi thấy cha đang bị cùm trước sân. Tôi ngồi xuống, xoa đầu con He an ủi. Làm gì được bây giờ. Phải về thôi. 

Con He tình nghĩa. Cha tôi bị nhốt ở đâu nó cũng lần mò tới được. Nó đã bị đánh chết, vì là con chó địa chủ. Nó rên ư ử lết về và chết bên cạnh anh em tôi.

Nhân chứng Ngô Việt

Tay mẹ ôm em, tay mẹ dắt tôi. Chân tôi bước lẩy bẩy. Bà nội lưng chưa còng gánh gồng. Cả nhà đến ở một nơi khác. Ở nơi đó có người đứng canh ngoài ngõ. Mẹ và bà nội bị bắt đi đâu tôi không biết. Vài ngày về nhà. Vài ngày sau lại bị bắt đi. Em tôi đói. Tôi cũng đói. Em lả dần và chết bên cạnh tôi. Tôi chín tuổi và em tôi bốn tuổi. Tôi không còn mường tượng được khuôn mặt em. Tôi chỉ nhớ buổi tối tôi ngồi bên em, em là đứa trẻ đã chết. Tôi ngồi nhìn và không biết phải làm gì với em. 

(…)

Giữa đêm tôi thức dậy. Mẹ nằm trên chõng đã buông xuôi. Mái tóc bung xõa xuống đất. Không còn cái chiếu nào để đắp cho mẹ. Mẹ nằm yên tĩnh chờ đêm mai anh trai tôi mới đến được. Anh đến mang theo một chiếc chiếu. Anh cuốn mẹ lại trong chiếu. Bó bằng hai đoạn dây tre. Chôn ở đâu, chỗ nào cũng bị cấm. Anh họ tôi nói, ruộng mình đâu thì chôn ở đó. Đám tang giữa đêm. Bốn người đưa. Người đi đầu cầm đuốc. Anh trai và anh họ khiêng mẹ. Một người vác cuốc đi sau. Những cái bóng lướt đi. Không một tiếng thầm thì. Đuốc cháy leo lét. Tôi ngồi nhìn theo. Sao tôi không đi cùng. Vì không ai bảo tôi đi. Tôi chưa tự biết phải làm gì.

(…)

Bà nội tôi không trụ được nữa. Bà cũng đi luôn với mẹ và em. Chưa đến ba tháng, từ buổi trưa tôi sốt cao đang nằm trên giường. Những đêm vùi người thân xuống đất. Ký ức đi theo suốt một đời. 

Có khi thảm cảnh làm những đứa trẻ trở nên già trước tuổi, rắn rỏi và mạnh mẽ. 

Nhân chứng Hoàng Quỳnh:

Ở trường tôi tổ chức một cuộc họp học sinh toàn trường để học sinh tố cáo tội ác của giai cấp địa chủ. Tôi mụ mẫm ngồi nghe. Cố thu mình nhưng có đứa thấy, yêu cầu tôi đứng dậy vạch các tội ác cha mẹ tôi.

Tôi không biết tội gì để vạch. Họ bắt tôi phải nhắc lại câu mà những kẻ trước đã nói.

(…)

Mắt nhắm thiêm thiếp mẹ vẫn cầu nguyện. “Trời cho tôi sống với con tôi, trời bắt tôi chết con tôi sống với ai bây giờ”. Buổi tối tôi đặt vào lòng bàn tay mẹ củ khoai. Mẹ ăn đi nhé. Sáng tinh mơ tôi vác cuốc ra đồng. Đến giữa buổi sáng tôi đã cuốc xong đám ruộng, phấn khởi đi về nhà khoe với mẹ. Mẹ nằm im lìm, củ khoai luộc tối qua vẫn nằm trên bụng mẹ. Chân tay mẹ đã lạnh ngắt. Tôi bình thản lạ lùng. Mẹ đã cực khổ tận cùng rồi. Chỉ có chết mới giải thoát. 

Cải cách ruộng đất trong bối cảnh tư pháp cộng sản chủ nghĩa

Về những “sai lầm” của Cải cách ruộng đất, Đảng Lao động Việt Nam đã viết: 

“Tư tưởng thành phần chủ nghĩa trong cải cách ruộng đất có tư tưởng nông dân, đặt bần cố nông lên trên tất cả, thậm chí đặt bần cố nông lên trên Đảng… Tư tưởng tả khuynh trong cải cách ruộng đất đã chớm nở lúc đầu; nó đã đưa đến chỗ học tập kinh nghiệm nước bạn một cách máy móc và không chịu điều tra nghiên cứu đầy đủ tình hình xã hội ta để định chủ trương chính sách cụ thể cho thích hợp. (…) Tác phong độc đoán chuyên quyền, do đó mà trở nên phổ biến, không đi theo đường lối quần chúng, mà thực tế đã trấn áp quần chúng, nhẹ tuyên truyền giáo dục, buộc quần chúng làm những điều trái với ý muốn, với lương tâm của họ, có khi trái với chân lý và chính nghĩa. (Đề cương báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 10-1956, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.2002, tập 17, tr. 430-431)

Ở Việt Nam, những lời “tự phê bình” này cho đến nay vẫn được sử dụng để đánh giá về các “sai lầm” của Cải cách ruộng đất. Luôn phê phán cách nhìn “duy tâm”, đề cao “duy vật”, nhưng những văn kiện như thế này lại rất “duy tâm” ở chỗ nó chỉ nhấn mạnh đến sai lầm về mặt tư tưởng và tâm lý, lấy “tinh thần” để giải thích cho “vật chất”.

Nó “quên mất” rằng tư tưởng “tả khuynh” này là hậu quả tất yếu của cách tổ chức xã hội và chính trị theo khuôn mẫu cộng sản chủ nghĩa. Chúng ta hãy điểm lại lược sử cách tổ chức nền tư pháp theo mô hình cộng sản của Mao Trạch Đông mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức từ 1950, trong đó, quan trọng nhất là Sắc lệnh 150 SL 12/4/1953 của ông, cho phép cơ quan hành chính địa phương thành lập “tòa án nhân dân đặc biệt” ở những vùng phát động cải cách ruộng đất. Tòa án này chỉ có tính chất tạm thời, sau khi xong nhiệm vụ sẽ giải tán (Điều 2). Về quan tòa, sắc lệnh quy định “một nửa số thẩm phán do Nông hội hoặc Hội nghị đại biểu nông dân ở huyện hay liên huyện cử ra. Khi đến xã nào xử thì lấy thêm đại biểu nông dân ở xã đó, nhưng số đại biểu lấy vào không được quá 1/3 tổng số thẩm phán.” 

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết kế hệ thống tư pháp cộng sản theo mô hình của Mao Trạch Đông trước đó mấy năm, tòa án được thành lập tạm thời, trong thời gian ngắn, thẩm phán do bần cố nông chiếm đa số áp đảo, dù mù chữ hoàn toàn hay “biết đọc chữ” thì không có bất kỳ một tri thức và kinh nghiệm tư pháp nào. Họ có quyền tuyên án tử hình, tước đoạt mạng sống người khác mà không cần chịu trách nhiệm gì đối với quyết định của mình. Tòa án chỉ tạm thời nên tuyên án xong thì tòa án giải thể.  

Những “tư tưởng tả khuynh”, “tác phong độc đoán chuyên quyền”, “đặt bần cố nông lên trên tất cả” thực ra thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Những yếu tố tinh thần này chỉ có thể gây ra thảm họa, khi và chỉ khi, nó được cung cấp một công cụ chính trị xã hội mạnh nhất: Tòa án. Cách thiết kế “tòa án” trong các Sắc lệnh 156-SL, 158-SL năm 1950 và Sắc lệnh 150 SL 12/4/1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không cần phải tranh luận gì, cũng thấy trước là sẽ gây hậu quả thảm khốc.

Đó là chưa kể, những hậu quả này đã được các trí thức ngành tư pháp chỉ ra từ 1948. Việc thiết kế cách tổ chức Cải cách ruộng đất thập niên 1950 ở Việt Nam không phải chỉ để “đem lại ruộng đất cho dân cày”. Nó rõ ràng hướng đến mục đích chính trị ở tầm chiến lược dài hạn và xa hơn rất nhiều mục đích “người cày có ruộng”, của các nhà lãnh đạo phong trào cộng sản ở giai đoạn đó. Tuy nhiên, vấn đề này xin không bàn ở đây.

Các nhà sử học ngày nay có thể hiểu hệ thống tòa án Cải cách ruộng đất ở thập niên 1950s được thiết kế như thế nào, nhưng họ không có dữ liệu để hiểu tác động xã hội của nó trong thực tế. “Gia đình” của Phan Thúy Hà không chỉ là văn học mà còn một công trình ghi chép xã hội học lịch sử, chỉ nhắm đến mục đích ghi chép thuần túy về lịch sử tinh thần và không áp đặt bất kỳ cách hiểu nào về quá khứ. Chính điều này làm cho tác phẩm có thể giúp các nhà nghiên cứu ngày nay nắm bắt một cách khách quan ký ức của những nhân chứng đã nếm trải hệ thống tòa án Cải cách ruộng đất, từ đó hiểu tác động thực tế của hệ thống đó đối với lịch sử.

Continue Reading

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ