Một con chiên ngồi trong Thánh đường Westminster ở trung tâm London ngày 17 tháng Ba năm 2020. Ảnh: Tolga Akmen/AFP qua Getty Images
Yuval Noah Harari
‘Will coronavirus change our attitudes to death? Quite the opposite’
Thứ Hai, ngày 20 tháng Tư năm 2020
Chuyển ngữ: Ngô S. Đồng Toản
————–
Liệu đại dịch Coronavirus có đưa ta trở về với truyền thống hơn, và chấp nhận những thái độ về sự chết – hay lại củng cố thêm những nỗ lực của chúng ta nhằm kéo dài sự sống?
———————–
Thế giới hiện đại đã bị định hình bởi niềm tin rằng loài người có thể láu hơn và đánh bại cái chết. Đó đã là một thái độ mới mang tính cách mạng. Trong phần lớn chiều dài lịch sử, loài người đã ngoan ngoãn phục tùng cái chết. Cho đến thời kỳ hiện đại gần đây, hầu hết các tôn giáo và hệ tư tưởng đều xem cái chết không chỉ là một định mệnh không thể tránh khỏi của chúng ta, mà còn như suối nguồn chính cho ý nghĩa cuộc sống. Những sự kiện quan trọng nhất của sự tồn tại con người xảy ra sau khi bạn thở hơi cuối cùng. Chỉ khi đó bạn mới hiểu ra những bí mật thực sự của đời sống. Chỉ khi đó bạn mới có được sự cứu rỗi vĩnh cửu, hay chịu đọa đày mãi mãi. Trong một thế giới không có cái chết – và do đó, không có thiên đường, địa ngục hay sự đầu thai – các tôn giáo như Thiên chúa giáo, Hồi giáo hay Ấn Độ giáo có thể đã không có ý nghĩa gì. Trong phần lớn chiều dài lịch sử, những bộ óc giỏi nhất của loài người đã chỉ bận bịu đưa ra ý nghĩa cho sự chết, chứ không nỗ lực đánh bại nó.
Sử thi Gilgamesh, Vua của thành Erech miền nam Babylonia, thần thoại về Orpheus và Eurydice, Kinh thánh, kinh Qur’an, kinh Vedas, và vô số kinh sách và truyện kể khác đã kiên nhẫn giải thích cho loài người đau khổ rằng chúng ta chết bởi vì Thượng đế, Vũ trụ, hay Mẹ Thiên nhiên muốn thế, và chúng ta nên chấp nhận định mệnh đó với sự khiêm tốn và biết ơn. Có lẽ một ngày nào đó Thượng Đế có thể bãi bỏ cái chết thông qua một động tác siêu hình vĩ đại như là xuống thế lần hai của đức Giêsu Kitô chẳng hạn. Nhưng việc sắp đặt những biến cố lớn như thế rõ ràng là vượt quá tầm mức của loài người xác phàm.
Rồi sau đó cuộc cách mạng khoa học nổ ra. Với các nhà khoa học, cái chết không phải là một bản án siêu nhiên – nó chỉ là một vấn đề kỹ thuật. Con người chết không phải vì Thượng Đế nói vậy, mà là do sự cố kỹ thuật nào đó. Ví dụ tim ngừng bơm máu. Ung thư đã phá hủy gan. Virus sinh sôi trong phổi. Và cái gì gây ra mọi vấn đề kỹ thuật này? Là các vấn đề kỹ thuật khác. Tim ngừng bơm máu là vì không đủ ô-xy đi đến cơ tim. Các tế bào ung thư lan truyền trong gan bởi vì có sự đột biến gien ngẫu nhiên nào đó. Các virus làm tổ trong phổi ta vì ai đó đã hắt hơi trong xe buýt. Chẳng có gì siêu hình trong đó cả.
Joe Coleman từ Dublin tại đền thờ Knock Shrine, Co Mayo, tháng Năm năm 2010, khi ông cho rằng có thể đã xảy ra sự hiện hình, liên quan trực tiếp đến sự giáng thế lần hai của chúa Ki-tô. Ảnh: Julien Behal/PA
Và khoa học tin rằng mỗi vấn đề kỹ thuật đều có một giải pháp kỹ thuật. Chúng ta không cần đợi đến lúc Chúa Kitô xuống thế lần hai để vượt qua cái chết. Một nhóm nhà khoa học trong một phòng thí nghiệm có thể làm việc đó. Nếu trước đây cái chết theo quan niệm truyền thống là chuyên môn của các giáo sĩ và nhà thần học trong những bộ áo thầy tu đen, thì ngày nay đó là những người trong bộ áo choàng phòng thí nghiệm trắng. Nếu trái tim run rẩy, chúng ta có thể kích thích nó bằng một thiết bị điều hòa nhịp tim, hay thậm chí cấy ghép một quả tim mới. Nếu ung thư hoành hành, chúng ta có thể giết nó bằng bức xạ. Nếu virus sản sinh ra nhanh trong phổi, chúng ta có thể đánh bại nó bằng các loại thuốc mới.
Đúng là hiện tại chúng ta không thể giải quyết mọi vấn đề kỹ thuật. Nhưng chúng ta đang làm việc để giải quyết. Những bộ óc siêu nhất không còn tiêu tốn thời gian của họ vào việc cố gắng đưa ra ý nghĩa cho cái chết. Thay vào đó, họ đang bận tìm cách kéo dài cuộc sống. Họ đang nghiên cứu những hệ thống vi trùng, sinh lý, và gien gây ra bệnh tật và tuổi già, và đang phát triển những loại thuốc mới và cách điều trị mang tính cách mạng.
…
Trong cuộc đấu tranh để kéo dài sự sống của mình, loài người đã có thành công đáng kể. Trong hai thế kỷ vừa qua, tuổi thọ trung bình đã tăng từ dưới 40 năm lên đến 72 trên toàn thế giới, và đến hơn 80 ở một số nước phát triển. Đặc biệt, trẻ em đã thành công trong việc thoát được nanh vuốt của tử thần. Cho đến thế kỷ 20, ít nhất một phần ba số trẻ em chưa bao giờ sống được đến tuổi trưởng thành. Những đứa trẻ thông thường không chống nổi các bệnh thời thơ ấu như kiết lỵ, sởi, và đậu mùa. Ở nước Anh thế kỷ thứ 17, khoảng 150 trong số 1000 trẻ sơ sinh bị chết trong vòng năm đầu tiên, và chỉ có khoảng 700 sống được đến tuổi 15. Ngày nay, chỉ có năm trong số 1000 trẻ em Anh bị chết trong năm đầu, và 993 em sống khỏe để kỷ niệm sinh nhật thứ 15. Trên toàn thế giới, tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống còn ít hơn 5%.
Loài người đã rất thành công trong nỗ lực bảo vệ và kéo dài sự sống, vì thế thế giới quan của chúng ta đã thay đổi một cách sâu sắc. Trong khi các tôn giáo truyền thống coi cuộc sống sau khi chết là nguồn ý nghĩa chính, thì từ thế kỷ thứ 18 các hệ tư tưởng như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa nữ quyền đã không còn quan tâm đến thế giới bên kia nữa. Chính xác thì điều gì sẽ xảy đến với một nhà cộng sản sau khi ông ta hay bà ta chết đi? Cái gì xảy ra với một nhà tư bản? Điều gì xảy ra với một nhà nữ quyền? Chẳng thể tìm đâu được câu trả lời trong các tác phẩm của Karl Marx, Adam Smith hay Simone de Beauvoir.
Duy nhất có một hệ tư tưởng hiện đại vẫn trao cho cái chết một vai trò trung tâm đó là chủ nghĩa dân tộc. Trong những thời điểm thi vị và tuyệt vọng hơn của nó, chủ nghĩa dân tộc hứa hẹn rằng bất cứ ai hy sinh cho quốc gia thì sẽ sống mãi trong trí nhớ tập thể của dân tộc. Nhưng lời hứa này quá mờ nhạt nên ngay cả những người dân tộc chủ nghĩa nhất cũng không thực sự biết nên làm gì với nó. Làm thế nào để bạn thực sự “sống” trong ký ức? Nếu bạn chết rồi, làm sao bạn biết được nhân dân có nhớ về bạn hay không? Woody Allen đã từng được hỏi liệu ông ấy có hy vọng được sống mãi trong ký ức của các khán giả xem phim không. Allen trả lời: “Tốt hơn là tôi nên sống mãi trong căn hộ của tôi”. Thậm chí một số tôn giáo truyền thống cũng đã chuyển hướng trọng tâm của mình. Thay vì hứa hẹn về thiên đường nào đó sau khi chết, họ đã bắt đầu cố gắng dành nhiều nỗ lực vào những gì mà họ có thể làm cho bạn trong chính cuộc sống hiện tại.
————
“Chỉ có một hệ tư tưởng hiện đại vẫn còn trao cho cái chết một vai trò trung tâm: đó là chủ nghĩa dân tộc”
————
Liệu đại dịch viêm phổi cấp hiện nay có làm thay đổi thái độ của con người về cái chết? Có lẽ là không. Mà có khi còn ngược lại. Covid-19 có thể sẽ khiến chúng ta chỉ có nâng gấp đôi nỗ lực để bảo vệ sinh mạng người. Về phản ứng mang tính văn hóa chủ đạo đối với Covid-19 thì đó không phải là sự cam chịu – mà là một kết hợp của giận dữ và hy vọng.
Khi một bệnh dịch nổ ra trong một xã hội tiền-hiện đại như châu Âu thời trung cổ, người dân tất nhiên là sợ hãi cho mạng sống của mình và bị đánh gục bởi cái chết của những người thân, nhưng phản ứng văn hóa chính chỉ là một sự cam chịu. Các nhà tâm lý học có thể gọi đó là sự “bất lực tập nhiễm” (tâm lý bất lực do tự tập nhiễm lâu ngày mà có). Người dân thì tự bảo nhau đó là ý Chúa – hoặc có lẽ đó là sự trừng phạt thiêng liêng cho tội lỗi của loài người. “Chúa biết rõ mọi sự. Chúng ta là loài người xấu xa xứng đáng với điều ấy. Và bạn sẽ thấy, cuối cùng nó sẽ thành ra tốt đẹp cả. Đừng lo lắng, người tốt sẽ được phần thưởng trên trời. Và đừng phí thời gian tìm kiếm thuốc thang. Bệnh này được Chúa đem đến để trừng phạt chúng ta. Những ai nghĩ rằng con người có thể vượt qua bệnh dịch này bằng tài khéo léo của mình thì chỉ chất thêm tội kiêu căng vào những tội lỗi khác của họ. Chúng ta là ai mà có thể phá được kế hoạch của Chúa?”
Những thái độ ngày nay là có tính phân cực rõ ràng. Mỗi khi có thảm họa làm chết nhiều người – một tai nạn tàu lửa, một vụ cháy cao ốc, hay một trận bão lớn – chúng ta có xu hướng xem nó như là một thất bại của con người có thể phòng ngừa được, chứ không phải là một sự trừng phạt thần thánh hay một tai họa thiên nhiên không thể tránh được. Nếu công ty hỏa xa đã không hà tiện ngân quỹ dành cho an toàn, nếu chính quyền thành phố đã áp dụng các quy định phòng chữa cháy tốt hơn, và nếu chính phủ đã gửi sự trợ giúp đến nhanh hơn – thì những người này có lẽ đã được cứu sống. Ở thế kỷ 21, cái chết hàng loạt đã trở thành một lý do tự động cho những vụ án và điều tra.
Cảng Vila, Vanuatu, sau trận lốc xoáy Cyclone Pam vào tháng Ba năm 2015. Ảnh: Dave Hunt/Getty Images
Đây cũng là thái độ của chúng ta đối với dịch bệnh. Trong khi một số người thuyết pháp tôn giáo nhanh chóng mô tả bệnh AIDS như là sự trừng phạt của Chúa Trời đối với những người tình dục đồng giới, thì xã hội hiện đại lại khoan dung loại bỏ cái nhìn đó đối với thành phần cực đoan, và ngày nay nói chung chúng ta coi sự lan truyền của AIDS, Ebola hay các bệnh dịch gần đây khác như là những thất bại về mặt tổ chức. Chúng ta cho rằng laoif người có tri thức và các công cụ cần thiết để kiềm chế những bệnh dịch ấy, và nếu một bệnh lây nhiễm dù bị vượt khỏi sự kiểm soát, thì đó là do sự thiếu năng lực của con người chứ không phải là sự nổi giận của thần thánh. Covid-19 không là một ngoại lệ với quy tắc này. Cuộc khủng hoảng còn lâu mới kết thúc, nhưng trò đổ lỗi đã bắt đầu xuất hiện. Các quốc gia kết tội lẫn nhau. Các chính trị gia thù nghịch ném trách nhiệm sang nhau như một quả lựu đạn đã rút chốt.
Cùng với cơn giận dữ, cũng có một niềm hy vọng to lớn. Các anh hùng của chúng ta không phải là những tu sĩ mà họ chôn người chết và bào chữa cho tai ương – mà anh hùng là những thầy thuốc cứu được nhiều mạng sống. Và những siêu anh hùng của chúng ta là nhiều nhà khoa học trong phòng thí nghiệm. Cũng giống y như khán giả xem phim biết rằng Người Nhện và Nữ thần Chiến binh (Spiderman & Wonder Woman) cuối cùng sẽ đánh bại những kẻ xấu và cứu được thế giới, chúng ta cũng chắc chắn rằng trong vòng vài tháng, cũng có thể là một năm, các nhà khoa học sẽ đưa ra được những cách điều trị hiệu quả đối với Covid-19 và thậm chí có cả vắcxin. Khi đó chúng ta sẽ cho con virus corona xấu xa này thấy ai mới là sinh vật quan trọng nhất trên hành tinh này! Câu hỏi trên môi mọi người từ Nhà Trắng, qua Phố Wall cho đến các ban-công ở Ý là: “Khi nào sẽ có vacxin?”. Khi nào. Chứ không phải là Liệu.
Khi nào thì thực sự sẽ có vacxin và đại dịch sẽ qua đi, và thu hoạch chính của nhân loại sẽ là gì? Rất có khả năng, sẽ là: chúng ta cần đầu tư nhiều nỗ lực hơn nữa vào việc bảo vệ mạng sống con người. Chúng ta cần có nhiều bệnh viện hơn, nhiều bác sĩ hơn, nhiều y tá hơn. Chúng ta cần dự trữ nhiều máy trợ thở hơn, nhiều trang thiết bị bảo hộ hơn, nhiều bộ xét nghiệm hơn. Chúng ta cần đầu tư nhiều tiền bạc hơn vào việc nghiên cứu các mầm bệnh chưa biết đến và phát triển các phương pháp điều trị mới. Chúng ta không được mất cảnh giác một lần nữa.
—————
“Cuộc khủng hoảng còn lâu mới kết thúc, nhưng trò đổ lỗi đã bắt đầu xuất hiện. Các chính trị gia ném trách nhiệm sang nhau”
————————-
Một số người có thể tranh luận rằng đây là một bài học sai lầm, và rằng cuộc khủng hoảng dịch sẽ dạy cho chúng ta phải khiêm tốn. Chúng ta không nên quá tin chắc vào khả năng của mình để chế ngự các lực lượng thiên nhiên. Nhiều trong số những người phản đối này là những nhóm chống đối cổ xưa, họ thuyết giáo về tính khiêm tốn trong khi lại tự tin 100% rằng họ biết mọi câu trả lời đúng đắn. Một số người cố chấp không thể thay đổi bản thân – ví dụ, một mục sư phụ trách việc học tập Kinh thánh hàng tuần cho chính phủ của Donald Trump đã lên tiếng rằng bệnh dịch này cũng là sự trừng phạt thiêng liêng cho tình trạng đồng tính luyến ái. Nhưng ngay cả những người mẫu mực nhất về đạo đức truyền thống ngày nay cũng đã đặt niềm tin của họ vào khoa học hơn là vào Kinh văn.
Giáo hội Thiên chúa giáo đã chỉ dẫn các con chiên không đi lễ nhà thờ. Israel đã đóng cửa các giáo đường trong nước. Cộng hòa Hồi giáo Iran đang không khuyến khích người dân đến thăm các thánh đường. Mọi loại đền thờ và giáo phái đã ngừng các nghi lễ công cộng. Và tất cả là vì các nhà khoa học đã thực hiện các tính toán, và khuyến cáo là nên đóng cửa các nơi linh thiêng này.
Tất nhiên, không phải tất cả những ai cảnh báo chúng ta về sự ngạo mạn của con người đều mơ trở về thời trung cổ. Ngay cả các nhà khoa học cũng đồng ý rằng chúng ta cần phải thực tế trong những mong ước của mình, và rằng chúng ta không nên phát triển niềm tin mù quáng vào năng lực của các bác sỹ có thể che đỡ cho chúng ta khỏi mọi tai ương của cuộc sống. Trong khi toàn nhân loại đã trở nên mạnh hơn bao giờ hết, thì những con người cá nhân vẫn cần phải đối mặt với tính yếu đuối của mình. Có lẽ, trong một hay hai thế kỷ nữa, khoa học sẽ giúp kéo dài cuộc sống con người một cách vô hạn, nhưng bây giờ thì chưa. Với một ngoại lệ khả dĩ của số ít những trẻ em con nhà tỷ phú, tất cả chúng ta ngày nay đều sẽ chết trong tương lai, và tất cả chúng ta sẽ mất đi những người thân yêu. Chúng ta phải thừa nhận tính chất phù du của cuộc đời con người.
Một thánh đường trống rỗng ở Shahr-e-Ray, phía nam Tehran, vào Thứ Sáu hồi tháng Ba năm 2020. Ảnh: Ebrahim Noroozi/AP
Trong nhiều thế kỷ, con người sử dụng tôn giáo như một cơ chế phòng vệ, tin rằng họ có thể tồn tại mãi mãi ở thế giới bên kia. Hiện nay, đôi khi con người chuyển sang sử dụng khoa học như một cơ cấu phòng thủ thay thế, tin rằng các bác sỹ sẽ luôn cứu được mình, và rằng mình sẽ sống mãi trong căn hộ riêng. Thực ra, chúng ta cần một cách tiếp cận cân bằng hơn. Chúng ta cần tin vào khoa học để đối phó với các bệnh dịch, nhưng chúng ta vẫn cần tự gánh vác trách nhiệm xử lý sự ngắn ngủi và sự chết của đời sống cá nhân.
Cuộc khủng hoảng do đại dịch hiện nay quả thật có thể khiến nhiều người hơn nhận thức được bản chất không trường cửu của cuộc đời và những thành tựu của con người. Tuy nhiên, nền văn minh hiện đại của chúng ta, như một toàn thể, sẽ hầu như có thể đi theo một hướng ngược lại. Được nhắc nhở về tính mỏng manh của mình, nền văn minh sẽ phản ứng bằng cách xây dựng những phương tiện phòng vệ mạnh hơn. Khi đại dịch Coronavirus qua đi, tôi không trông đợi rằng chúng ta sẽ thấy một sự tăng lên đáng kể nào về ngân sách của các phòng nghiên cứu triết học. Mà tôi xin cá rằng, chúng ta sẽ thấy một sự tăng lên ồ ạt về ngân quỹ cho các trường y và các hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Và có lẽ đó là điều tốt nhất chúng ta có thể trông đợi, với cái nhìn của con người. Dù gì thì các chính phủ cũng không quá giỏi về triết học. Đó không phải là lãnh vực của họ. Các chính phủ thực sự phải tập trung vào việc xây dựng các hệ thống y tế tốt hơn. Còn các cá nhân thì cứ việc nâng cao trình độ triết học. Các bác sỹ không thể giải được điều bí ẩn khó hiểu về sự tồn tại cho chúng ta. Nhưng họ có thể mua cho chúng ta thêm thời gian để vật lộn với nó. Chúng ta làm gì với thời gian đó là tùy thuộc vào chính chúng ta.