Connect with us

Lịch sử Việt-Mỹ

Phát Triển Thư Viện Tại Việt Nam Cộng Hòa Trước Ngày 30-4-1975 (Kỳ 2)

Lâm Vĩnh Thế

Published on

G.S. Lâm Vĩnh Thế, M.L.S.

Phát Triển Thư Viện Tại Việt Nam Cộng Hòa Trước Ngày 30-4-1975 (Kỳ 1, Kỳ 2)

  1. Giai Ðoạn 1974-1975

Ðặc tính nổi bật của giai đoạn nầy là sự phát triển có kế hoạch của HTVVN đã tạo ra thế đứng quan trọng cho ngành thư viện trong sinh hoạt văn hóa của VNCH và đóng góp một phần rất quan trọng vào việc phát triển thư viện cho VNCH, đặc biệt là về mặt huấn luyện nhân sự và chuẩn hóa công tác chuyên môn.

3.1. Hội Thư Viện Việt Nam

HTVVN được chính thức thành lập bởi Nghị Ðịnh số 709/BNV/K3 của Bộ Nội Vụ, Chính phủ VNCH, ngày 12-12-1958.  Sau một năm hoạt động với một Ban Chấp Hành Lâm Thời, HTVVN họp Ðại Hội Thường Niên lần đầu tiên vào ngày 12-12-1959 và đầu ra một Ban Chấp Hành Trung Ương gồm các vị sau đây:[11]

Chủ Tịch: Ông Phan Vô Kỵ, Chánh Sự Vụ Sở Lưu Trữ Công Văn, Thư Viện Quốc Gia

Phó Chủ Tịch: Ông Nguyễn Gia Phương, Phó Giám Ðốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia

Tổng Thư Ký: Ông Hoàng Tuấn Anh, Quản Thủ Thư Viện, Bộ Thông Tin và Thanh Niên

Thủ Quỹ: Ông Nguyễn Công Tạo, Thơ ký Hành chánh thượng hạng, Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia

Ủy Viên Kế Hoạch: Cô Trần Thị Kim Sa, Quản Thủ Thư Viện, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh

Ủy Viên Xã Hội: Cô Nguyễn Thị Cút, Phó Giám Ðốc Thư Viện Sở Thông Tin Hoa Kỳ, Sài Gòn

Ủy Viên Tổ Chức: Ông Huỳnh Ngọc Tám, Tham sự Hành chánh thượng hạng hạng nhất, Tổng Thư Ký Trường Ðại Học Khoa Học

Ủy Viên Tài Chánh: Ông Kiều Hữu Hoành, Chủ sự Phòng Lưu Trữ Công Văn, Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia

(Ban Chấp Hành Trung Ương Hội Thư Viện Việt Nam, Thư Viện Tập San, số Ðặc Biệt 1960, tr. 45)   

Hội quy tụ được một số đồng nghiệp công tác trong ngành thư viện, phần lớn là công chức, được cơ quan chỉ định làm làm việc trong các thư viện của cơ quan và một số người bên ngoài ngành thư viện.  Tờ báo Thư Viện Tập San, cơ quan ngôn luận chính thức của HTVVN, số Ðặc Biệt năm 1960, cũng có đăng bảng danh sách hội viên gồm tất cả 82 người (trong đó 43 người làm việc trong ngành thư viện và 39 người ở bên ngoài ngành thư viện).  Một số hội viên làm việc trong ngành thư viên đã có tham dự một trong hai “lớp tu nghiệp công chức về lưu trữ công văn và quản trị thư viện” dành cho nhân viên các Nha, Sở của các Bộ trong chính phủ do Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức (tổng số công chức tham gia hai lớp tu nghiệp nầy là 90 người, 57 người Khóa 1956 và 33 người Khóa 1957).  Có thể nói đa số hội viên vẫn tiếp tục truyền thống sinh hoạt thư viện của thời Pháp thuộc: thư viện chỉ là một kho chứa sách hoàn toàn ở thế tĩnh; không có cung cấp hoạt động tham khảo; với kho sách đóng, độc giả điền phiếu yêu cầu và nhân viên thư viện vào kho lấy sách ra cho độc giả, độc giả không được tìm sách trên kệ; sách được xếp trên kệ không theo đề tài, môn loại, mà theo khổ sách; tủ phiếu thư mục phần lớn viết tay hay đánh máy, v.v.  Mỗi năm HTVVN họp Ðại Hội Thường Niên một lần vào tháng 12 dương lịch để bầu lại Ban Chấp Hành Trung Ương.  Hoạt động chuyên môn của HTVVN rất giới hạn

Trong thời gian 1960-1963, tức là những năm cuối cùng của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, do tình hình khó khăn về chính trị của VNCH, HTVVN không có hoạt động gì đáng kể.  Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm, HTVVN còn gặp nhiều khó khăn hơn về nhân sự vì một số hội viên nghỉ hưu, hay bị bắt buộc phải về hưu, đặc biệt là các vị trong Ban Chấp Hành Trung Ương của Hội (tất cả đều là công chức cao cấp, và có thể cũng là đảng viên Đảng Cần Lao đã bị giải tán và nghiêm cấm sau cuộc đảo chánh; độc giả cũng cần nhớ thêm là Ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thóng Ngô Đình Diệm, cũng chính là Chủ Tịch Danh Dự của HTVVN [12]), đưa đến việc phải tạm ngưng hoạt động của HTVVN cho đến năm 1968. 

Hội Thư Viện Việt Nam trở lại hoạt động bình thường từ năm 1968 với các vị sau đây là Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương: Cô Ðặng Phương Nghi (người Việt Nam thứ nhì tốt nghiệp trường Ecole des Chartes của Pháp; Giám Ðốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia 1968-1970 Người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Trường Ecole des Chartes là ông Ngô Ðình Nhu, bào đệ và Cố vấn Chính trị của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm);  Ông Nguyễn Văn Toán, (tức là nhà văn và nhà nghiên cứu Toan Ánh nổi tiếng tại Miền Nam với các phẩm về phong tục tập quán và hội hè đình đám ở thôn quê Miền Bắc Việt Nam; về sau ông được HTVVN đề cử và được bầu vào Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục Nhiện Kỳ I, 1970-1973), và Bà Nguyễn Thị Cút, (Giám Ðốc Thư viện Abraham Lincoln thuộc Sở Thông Tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn; dịch giả của cuốn sách nổi tiếng Phương Pháp Tổng Kê và Phân Loại Sách).  (Nguyễn Hùng Cường, Hội Thư Viện Việt Nam đã được 15 tuổi, Thư Viện Tập San, số 19, số Ðặc Biệt, 1970, tr. 1-4).  Sau đây là danh sách các Ban Chấp Hành Trung Ương của HTVVN của các nhiệm kỳ 1968-69, 1970, và 1971:

Nhiệm kỳ 1968-1969: [13]

Chủ Tịch: Cô Ðặng Phương Nghi

Phó Chủ Tịch: Ông Nguyễn Văn Toán

Tổng Thư Ký: Bà Bùi Thị Mỹ Chân

Chánh Thủ Quỹ: Cô Phan Mỹ-Linh

Ủy Viên Kế Hoạch: Ông Nguyễn Hùng Cường

Ủy Viên Tổ Chức: Ông Nguyễn Ứng Long

Ủy Viên Tài Chánh: Bà Nguyễn Thị Cút

Ủy Viên Xã Hội: Cô Ðào Thúy

Nhiệm kỳ 1970: [14]

Chủ Tịch: Ông Nguyễn Văn Toán 

Phó Chủ Tịch: Bà Nguyễn Thị Cút

Tổng Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Thu

Phụ Tá Tổng Thư Ký: Ông Ðặng Ngọc Thiềm

Chánh Thủ Quỹ: Cô Phan Mỹ-Linh

Phụ Tá Chánh Thủ Quỹ: Cô Lê Thị Lệ-Chi

Ủy Viên Kế Hoạch: Ông Nguyễn Ứng Long

Ủy Viên Tổ Chức: Ông Ngô Văn Cách

Ủy Viên Tài Chánh: Bà Nguyễn Thị Thiều

Ủy Viên Xã Hội: Ông Nguyễn Văn Vinh

Ủy Viên Thư Viện Học Ðường: Bà Lưu Chiêu-Hà

Cố Vấn: Ông Nguyễn Hùng Cường 

Nhiệm kỳ 1971: [15]

Chủ Tịch: Bà Nguyễn Thị Cút

Phó Chủ Tịch: Ông Nguyễn Ứng Long

Tổng Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Thu

Phụ Tá Tổng Thư Ký: Cô Nguyễn Thị Phương-Nguyệt

Thủ Quỹ: Cô Chu Chính-Tâm

Phụ Tá Thủ Quỹ: Cô Lê Thị Lệ-Chi

Ủy Viên Kế Hoạch: Bà Hoàng Thị Kim-Loan

Ủy Viên Tổ Chức: Ông Lâm Vĩnh-Thế

Ủy Viên Tài Chánh: Ông Nguyễn Văn Vinh

Ủy Viên Xã Hội: Cô Lê Thu Nguyệt

Ủy Viên Thư Viện Học Ðường: Bà Lưu Chiêu-Hà

Cố Vấn: Ông Nguyễn Văn Toán

Bà Nguyễn Thị Cút được bầu vào chức vụ Chủ Tịch 3 nhiệm kỳ liên tiếp (1971-1973).  Trong thời gian nầy, HTVVN có thành lập được một Chi Hội tại Huế, tỉnh Thừa Thiên (Chủ Tịch đầu tiên của Ban Chấp Hành Chi Hội vào năm 1970 là Ông Phan Hoàng Quý,[16] từ năm 1973 là Ông Nguyễn Cửu Sà; Chi Hội Thừa Thiên đã có một số hoạt động đáng kể.[17] Một số ủy ban chuyên môn bắt đầu hoạt động với sự tham gia của một số vị đã tốt nghiệp Cao Học TVH (MLS) từ Hoa Kỳ, như Bà Tăng Thị Tị, Ông Nguyễn Ứng Long, Bà Ðào Thúy, Cô Phạm Thị Lệ-Hương, Ông Lê Ngọc Oánh, v.v.  Ðồng thời các học viên đã tốt nghiệp các khóa huấn luyện của CQPTTV cũng bắt đầu gia nhập HTVVN, tham gia hoạt động trong các ủy ban chuyên môn và đóng góp bài vở cho TVTS.  Bản thân người viết, sau khi tốt nghiệp khóa huấn luyện của CQPTTV cũng gia nhập hội và bắt đầu đóng góp bài vở cho TVTS, phần lớn dựa vào kinh nghiệm làm việc tại thư viện Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Ðức; việc đóng góp bài vở cho TVTS được tiếp tục sau khi người viết tốt nghiệp MLS ở Hoa Kỳ về.[18,19,20]   

Ðầu năm 1974, tại Ðại Hội Thường Niên của HTVVN, người viết được bầu vào chức vụ Chủ Tịch với Ban Chấp Hành có thành phần như sau: [21]

Chủ tịch: Ông Lâm Vĩnh-Thế

Phó Chủ Tịch: Ông Trần Anh Liễn 

Tổng Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Hường

Chánh Thủ Quỹ: Cô Phạm Thị Lệ-Hương

Phụ Tá Chánh Thủ Quỹ: Bà Nguyễn Thị Khuê-Giung

Ủy Viên Kế Hoạch: Ông Nguyễn Ngọc Hoàng

Ủy Viên Tài Chánh: Ông Nguyễn Văn Vinh

Ủy Viên Thư Viện Học Ðường: Ông Lê Ngọc Oánh

Ủy Viên Thư Viện Ðại Học và Chuyên Môn: Cô Nguyễn Thị Nga

Ủy Viên Thông Tin Liên Lạc: Ông Ðoàn Huy Oánh

Ủy Viên Xã Hội: Cô Ðặng Thị Thảo

Ủy Viên Tổ Chức: Cô Phạm Thị Chính

Cố Vấn Ðoàn gồm: Bà Nguyễn Thị Cút, Ông Nguyễn Hùng Cường, Ông Ðỗ Văn Anh, và Ông Nguyễn Văn Thu

Ðây là lần đầu tiên từ ngày thành lập, HTVVN đã bầu vào các chức vụ Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch, và Thủ Quỹ của Ban Chấp Hành ba quản thủ thư viện chuyên nghiệp, tốt nghiệp bằng Cao học TVH (MLS) từ Hoa Kỳ.  Một điều nữa cũng cần được nhấn mạnh: đây là lần đầu tiên HTVVN đã bầu một Ban Chấp Hành gồm đa số là những người trẻ (dưới 40 tuổi), tất cả đều đã được huấn luyện chuyên môn thư viện, với một Cố Vấn Ðoàn gồm những vị cao niên và hoạt động lâu năm trong nghề.  Ban Chấp Hành nầy đã không phụ lòng tin tưởng của hội viên, và, trên thực tế, đã làm được rất nhiều việc tích cực cho việc phát triển của chính HTVVN cũng như phát triển công tác chuyên môn thư viện tại VNCH.  

3.2. Phát Triển Của Hội Thư Viện Việt Nam

3.21. Trụ Sở Hội Thư Viện Việt Nam

Tại phiên họp đầu tiên của Ban Chấp Hành HTVVN nhiệm kỳ 1974, một vấn đề quan trọng được đưa ra thảo luận là vấn đề trụ sở của Hội.  Trước đó trong nhiều năm, trụ sở của Hội được đặt tại Hội Việt-Mỹ, số 55 đường Mạc Ðĩnh Chi, Quận 1, Sài Gòn.  Lý do là vì vị Chủ Tịch lúc đó, Bà Nguyễn Thị Cút, là Thư Viện Trưởng của Thư Viện Abraham Lincoln, nằm trong khuôn viên của Hội Việt-Mỹ.  Tân Ban Chấp Hành nhận thấy không nên tiếp tục duy trì trụ sở của Hội tại đây nữa.  Vậy thì câu hỏi là bây giờ nên đặt trụ sở tại đâu?  Cô Phạm Thị Lệ-Hương, Chánh Thủ Quỹ, lúc đó đang phụ trách phần thế học của Thư Viện Ðại Học Vạn Hạnh, đồng thời là Phụ Tá Khoa Trưởng của Phân Khoa Khoa Học Xã Hội, Ðại Học Vạn Hạnh, đã đưa ra đề nghị là nên dời trụ sở về khuôn viên của Ðại Học Vạn Hạnh.  Cô cũng tình nguyện đóng vai trò đại diện cho Ban Chấp Hành để thương thảo với Ðại Học Vạn Hạnh về việc nầy.  Và Cô đã thành công.  Thượng Tọa Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh đã hoan hỉ đồng ý cho phép Hội Thư Viện Việt Nam được đặt trụ sở tại Văn phòng của Phân Khoa Khoa Học Xã Hội.  Từ đó cho đến ngày 30-4-1975, HTVVN chính thức có trụ sở nằm trong khuôn viên của Ðai Học Vạn Hạnh, số 222 đường Trương Minh Giảng, Quận 3, Sài Gòn.  Khi CQPTTV được giải thể, rất nhiều sách báo và tài liệu về thư viện học đã được ông Hafenrichter trao tặng cho HTVVN và được giữ tại Thư Viện của Viện Ðại Học Vạn Hạnh và đã được sử dụng trong việc huấn luyện của HTVVN cũng như của Ban Cử Nhân Thư Viện Học của Ðại Học Vạn Hạnh sau nầy.

3.22. Hoạt Ðộng Nhiệm Kỳ 1974

Cũng trong phiên họp đầu tiên đó, Ban Chấp Hành đã thảo luận và đồng thanh chấp thuận một chương trình hoạt động với các trọng điểm như sau: 1) Xuất bản 4 số TVTS và Bản Tin hàng tháng; 2) Tổ chức hai Khóa Huấn Luyện Căn Bản Thư Viện Học dành cho hội viên; 3) Tổ chức một Ðại Hội Hè để thảo luận một số vấn đề chuyên môn và nội bộ của Hội; 4) Chấn chỉnh và kiện toàn tình trạng hội viên của Hội; và, 5) Ấn hành một số tài liệu chuyên môn.  

Tác giả bài viết này, với tư cách Chủ Tịch HTVVN, đã viết Lá Thư Chủ Tịch cho số 1 của Bản Tin như sau: [22]

Ðể có đủ ngân khoản cho các hoạt động vừa kể, Ban Chấp Hành đã soạn thảo một Dự Án Hoạt Ðộng chi tiết để nộp cho Cơ Quan Văn Hóa Á Châu (Asia Foundation) để xin tài trợ.  Asia Foundation đã duyệt xét và chấp thuận tài trợ toàn bộ kinh phí cho Dự Án Hoat Ðộng nầy.  Nhờ sự tài trợ nầy, Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 1974 đã thực hiện được trọn vẹn tất cả những hoạt động đã đề ra.

3.221. Thư Viện Tập San Và Bản Tin Hàng Tháng

Bốn số TVTS, từ số 20 (Ðệ 1 TCN 1974) đến số 23 (Ðệ 4 TCN 1974), với bài vở thật phong phú, đã được xuất bản và gởi đến toàn thể hội viên khắp cả nước, từ Huế vào đến An Xuyên (Cà Mau).  Sau đây là một số bài vở tiêu biểu:

– Lâm Vĩnh Thế, Thư viện cổ tại Alexandrie, số 20, tr. 3-12.

– Nhật Thịnh và Nguyễn Thị Khuê Giung, Ðại cương những tên hiệu Việt Nam xưa và nay, số 20, tr. 23-34.

– Nguyễn Văn Hường, Sử dụng học sinh phụ tá tại thư viện, số 21, tr. 14-28.

– Lê Ngọc Oánh, Tiến trình phát triển thư viện học đường Việt Nam hiện tại, số 21, tr. 38-51.

– Nguyễn Xuân, Văn khố Việt Nam thời Pháp thuộc, và những di sản văn hóa triều Nguyễn, số 22, tr. 17-42.

– Lê Tấn Tài, Cách tổ chức hồ sơ xếp đứng trong thư viện học đường, số 22, tr. 43-52.

– Lê Bá Kông (Phạm Thị Lệ-Hương dịch), Kỹ nghệ xuất bản sách tại Việt Nam Cộng Hòa, số 23, tr. 17-32.

– Lâm Vĩnh Thế, Chương trình C.I.P. là gì?, số 23, tr. 45-50.

Trong thời gian giữa các số TVTS, 7 số Bản Tin hàng tháng cũng đã được ấn hành và phân phối đến hội viên để thông báo đầy đủ cho hội viên về các dự án công tác (thí dụ như Ðại Hội Hè 1974) cũng như những hoạt động cụ thể của Ban Chấp Hành về cả hai phương diện đối nội cũng như đối ngoại (thí dụ như tranh cử vào Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục) trong suốt nhiệm kỳ.   

3.222. Huấn Luyện Căn Bản Thư Viện Học

Theo đúng như chương trình hoạt động đã đề ra, hai Khóa Huấn Luyện Căn Bản Thư Viện Học miễn phí dành cho hội viên đã được tổ chức trong năm 1974.  Khóa thứ nhứt đã khai giảng vào tháng 5/1974 (khai giảng ngày 7-5-1974 và bế giảng vào ngày 28-6-1974, với 31 học viên) và khóa thứ nhì vào tháng 9/1974 (khai giảng ngày 23-9-1974 và bế giảng vào ngày 13-11-1974, với 30 học viên).  Mỗi khóa gồm 120 giờ học, được tổ chức tại trụ sở của Hội; phòng học là Thư viện của Ðại Học Vạn Hạnh.  Ban giảng huấn là các thành viên của Ban Chấp Hành và Cố Vấn Ðoàn.  Chương trình học gồm các bộ môn như sau: Lịch Sử Thư Viện; Tổ Chức và Ðiều Hành Thư Viện; Tổng Kê (biên mục) và Phân Loại; Công Tác Tham Khảo. Trong lúc học tập, học viên cũng được đưa đi thăm các thư viện trong Đô thành Saigon.   Các lễ khai giảng và bế giảng đều được tổ chức trọng thể tại Giảng Ðường 19 của Ðại Học Vạn Hạnh và đặt dưới sự đồng chủ tọa của vị Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên và Thượng Tọa Thích Mãn Giác, Phụ Tá Viện Trưởng, Viện Ðại Học Vạn Hạnh.  Tại lễ bế giảng các học viên đều được cấp chứng chỉ tốt nghiệp của Hội.  Sau lễ bế giảng là một tiệc trà thân mật tại Câu Lạc Bộ của Viện Ðại Học Vạn Hạnh.  Trong các dịp nầy, thiệp mời được gởi đến cho tất cả các cơ quan văn hóa công và tư tại thủ đô; nhờ vậy vị trí của HTVVN trong sinh hoạt văn hóa của VNCH đã được nâng cao rất nhiều. 

GS Bùi Xuân Bào, Thứ Trường Bộ Văn Hóa Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa, đọc diễn văn trong 

Lễ Khai Mạc Khóa Huần Luyện

 

GS Nguyễn Ngọc Huy, Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, trao Chứng Chỉ Tốt Nghiệp 

cho học viên của Khóa Huấn Luyện

 

Tiệc trà sau Lể Bế Giảng Khóa Huấn Luyện tại Câu Lạc Bộ của Viện Đại Học Vạn Hạnh

 

3.223. Ðại Hội Hè 1974

Ðây là lần đầu tiên từ ngày thành lập, HTVVN triệu tập một đại hội bất thường mệnh danh là Ðại Hội Hè 1974, vào các ngày 9, 10 và 11-8-1974, để thảo luận một số vấn đề về nội bộ và chuyên môn.  Ðại Hội nầy đã được Ban Chấp Hành chuẩn bị rất kỹ lưỡng.  Bốn Ủy Ban Ðặc Biệt đã được thành lập và giao cho nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu cho Ðại Hội như sau:

Ủy Ban Phân Loại:

Trưởng Ban: Ông Lâm Vĩnh Thế

Thư Ký: Ông Nguyễn Ngọc Hoàng

          Ủy Viên: Cô Nguyễn Thị Phương Nguyệt, Ông Ðỗ Văn Anh, 

          và Ông Nguyễn Văn Vinh

Ủy Ban Tổng Kê [biên mục]:

Trưởng Ban: Cô Nguyễn Thi Nga

Ủy Viên:  Cô Phạm Thị Lệ-Hương, Bà Bùi Tuyết Nhung, và

         Ông Hoàng Ngọc Hữu

Ủy Ban Tu Chính Ðiều Lệ và Nội Quy:

Chủ Tọa: Các ông Nguyễn Cửu Sà và Lâm Vĩnh Thế

Thư Ký Ðoàn: Các ông Nguyễn Nhựt Quang, Trần Thanh Sao, và Lê Văn Thu

Thuyết Trình Ðoàn: Các ông Lê Ngọc Oánh, Nguyễn Hùng 

Cường, và Hoàng Ngọc Hữu

Ủy Ban Quy Chế Thư Viện Học Ðường:

Chủ Tọa: Ông Lê Ngọc Oánh

Thư Ký Ðoàn: các ông Nguyễn Nhựt Quang và Nguyễn Văn 

Thước

Thuyết Trình Ðoàn: Các cô Ðặng Thị Thảo và Huỳnh Thị Oanh

Nhiệm vụ của các Ủy Ban đã được Ban Chấp Hành ấn định cụ thể như sau:

Ủy Ban Phân Loại: soạn thảo bảng số phân loại thập phân Dewey cho Lịch Sử, Ðịa Lý, và Văn Học Việt Nam

Ủy Ban Tổng Kê [biên mục]: giải quyết dứt khoát vấn đề làm Tiểu dẫn cho tên tác giả Việt Nam

Ủy Ban Tu Chính Ðiều Lệ và Nội Quy: tu chính Ðiều Lệ và Nội Quy của HTVVN cho thích hợp với hoàn cảnh và đà phát triển của ngành thư viện tại Việt Nam

Ủy Ban Quy Chế Thư Viện Học Ðường: dự thảo một Quy Chế dành cho quản thủ thư viện học đường

Các Ủy Ban đã họp hàng tuần trong suốt hai tháng 4 và 5/1974.  Ðề nghị của các Ủy Ban sau đó đã được Ban Chấp Hành thảo luận trong các phiên họp ngày 29-6-1974 và 4-7-1974.  Toàn bộ đề nghị của bốn Ủy Ban được in ra và gởi đến cho toàn thể hội viên nghiên cứu một tháng trước khi về tham dự Ðại Hội.  Ban Chấp Hành cũng liên hệ với Nha Tiểu Học và Nha Trung Học của Bộ Văn Hóa Giáo Dục để các quản thủ thư viện học đường (đều là giáo chức) được cấp Lộ Trình Thư, và riêng một số hội viên ở cách tỉnh xa được cấp cả vé phi cơ, để về dự Ðại Hội.  Trong thời gian 3 ngày dự Ðại Hội, các hội viên đều được Hội cấp phụ cấp vãng phản.  Ðại Hội Hè 1974 đã thành công hết sức rực rỡ với sự tham dự của gần 300 hội viên (trước đây số hội viên về họp các Ðại Hội Thường Niên để bầu lại Ban Chấp Hành không bao giờ vượt quá con số 100) và đạt được tất cả 4 mục tiêu đề ra, quan trọng nhứt là Quy Chế Thư Viện Học Ðường.[23]  

3.224. Chấn Chỉnh Tình Trạng Hội Viên

Từ đầu nhiệm kỳ 1974, Ban Chấp Hành được biết tổng số hội viên là gần 400 trên toàn quốc.  Trong số nầy, hội viên thực sự có sinh hoạt với Hội không lên quá 100.  Số hội viên đã không đóng niên liễm (200 đồng một năm) lên tới trên 250 người, trong số nầy có người đã thiếu niên liễm 2-3 năm, thậm chí có người thiếu niên liễm đến 6-7 năm.  Ðiều nầy có nghĩa là HTVVN đã thất thu một số niên liễm rất quan trọng.  Trong khi họp để thảo luận về vấn đề nầy, Ban Chấp Hành đi đến kết luận là tình trạng hội viên không đóng niên liễm có hai nguyên nhân chánh: 1) Về phía hội viên, vì trong quá khứ Hội đã không có đem lại quyền lợi gì thiết thực cho hội viên khiến cho một số đông hội viên nghĩ rằng chả có lý do gì họ phải đóng niên liễm cả; 2) Về phía Hội thì cũng có thiếu sót là không có theo dõi và truy thu niên liễm.  Từ kết luận nầy, Cô Phạm Thị Lệ-Hương, Chánh Thủ Quỹ, đã đề ra một kế hoạch để truy thu và tận thu niên liễm.  Các Bản Tin hàng tháng là phương tiện giúp thực hiện kế hoạch nầy.  Một mặt trình bày cho hội viên thấy rõ những quyền lợi thiết thực mà họ đã và đang được hưởng từ khi Tân Ban Chấp Hành bắt đầu làm việc: 1) Hội viên đã được nhận miễn phí các số TVTS với bài vở phong phú giúp họ tích cực trong công tác cũng như những Bản Tin hàng tháng với đầy đủ tin cập cập nhật; 2) Hội viên đã được huấn luyện miễn phí về căn bản thư viện học (tổng số hội viên tốt nghiệp qua 2 khóa huấn luyện là 61 người); 3) Hội viên về tham dự Ðại Hội Hè đã được hưởng Lộ Trình Thư và phụ cấp vãng phản.  Mặt khác thì tha thiết kêu gọi tất cả hội viên phải đóng niên liễm để Hội có phương tiện tiếp tục phục vụ hội viên.  Tất cả những hội viên còn thiếu niên liễm đều nhận được văn thư nhắc nhở và ghi rõ số niên liễm còn thiếu.  Ngoài ra văn thư nầy cũng ghi rõ thời gian ân hạn, sau thời điểm đó nếu hội viên vẫn không chịu đóng niên liễm thì sẽ bị xóa tên trong danh sách hội viên.  Tuyệt đại đa số hội viên đã hưởng ứng nồng nhiệt lời kêu gọi nầy và kết quả là HTVVN đã truy thu được trên 100.000 đồng tiền niên liễm đã bị thiếu.  Ðến đầu năm 1975, tại Ðại Hội Thường Niên ngày 12-1-1975, tổng số hội viên của HTVVN được ghi nhận là 436.[24]        

3.225. Ấn Hành Tài Liệu Chuyên Môn

Về phương diện tài liệu chuyên môn, ngoài những giáo trình in ronéo đã sử dụng trong các khóa huấn luyện, HTVVN đã ấn hành quyển Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey dựa trên ấn bản trong phần Phụ Ðính của cuốn Phương Pháp Tổng Kê và Phân Loại Sách của Ông Richard K. Gardner và Bà Nguyễn Thị Cút với nhiều sửa đổi và gia tăng các con số cho các mục Sử Ðịa và Văn Học Việt Nam đã được thông qua tại Ủy Ban Phân Loại của Ðại Hội Hè 1974.  Ngoài ra, HTVVN cũng đã thành lập một Ủy Ban Phiên Dịch để chuyển dịch sang Việt ngữ cuốn Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey, ấn bản 10 Rút gọn (Dewey Decimal Classification, 10th Abridged Edition, của nhà xuất bản Forest Press).  Dự án phiên dịch nầy đã nhận được sự tài trợ của Asia Foundation.

3.3. Hệ Quả Của Sự Phát Triển Hội Thư Viện Việt Nam

Thành quả rực rỡ của những hoạt động tích cực của HTVVN trong nhiệm kỳ 1974 không những đã tạo ra một thế đứng có tầm vóc cho HTVVN trong sinh hoạt văn hóa của VNCH mà còn mang lại một số hệ quả tốt đẹp mà chính Ban Chấp Hành HTVVN cũng hoàn toàn không tiên liệu được. 

3.31. Tài Trợ Của Bộ Văn Hóa Giáo Dục Và Thanh Niên

Do đề nghị của vị Thứ Trưởng Ðặc Trách Văn Hóa, người đã chứng kiến tận mắt những hoạt động tích cực của HTVVN trong những lần chính ông đến chủ tọa các lễ khai giảng và bế giảng của các khóa huấn luyện do Hội tổ chức, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên đã ban hành Nghị Ðịnh số 2496/VHGDTN/TC/TT/NÐ ngày 9-11-1974 trợ cấp một ngân khoản là 200.000 đồng cho những hoạt động bất vụ lợi của Hội Thư Viện Việt Nam.

3.32. Ðại Diện Hội Thư Viện Việt Nam Trong Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục

Hội Ðồng Văn Hoá Giáo Dục (HÐVHGD) là một trong ba hội đồng (hai hội đồng kia là Hội Ðồng Kinh Tế – Xã Hội và Hội Ðồng Các Sắc Tộc) do Hiến Pháp VNCH năm 1967 quy định với nhiệm vụ tư vấn cho chính phủ VNCH và do chính Phó Tổng Thống VNCH làm Chủ Tịch.  Theo Hiến Pháp 1967 quy định, HÐVHGD có tất cả 60 hội viên, 40 được các hội đoàn văn hóa giáo dục bầu ra và 20 do Tổng Thống VNCH chỉ định.  Trong số 40 hội viên được bầu sẽ có 8 hội viên do các hội đoàn văn hóa tư bầu ra.  Trong nhiệm kỳ I (1970-1973) của HÐVHGD, Ông Nguyễn Văn Toán là đại diện của HTVVN.  Trong thời gian sinh hoạt với HÐVHGD, Ông Toán đã đệ trình Hội Ðồng một dự án thành lập các tủ sách xã thôn cho VNCH.[25]   Ðầu năm 1974 HÐVHGD chuẩn bị bầu cử cho nhiệm kỳ 2 (1974-1977).  HTVVN là một trong 15 hội đoàn văn hóa tư hội đủ điều kiện để được tham gia vào cuộc bầu cử nầy.  Ban Chấp Hành HTVVN đồng ý đề cử Ông Nguyễn Hùng Cường, một trong 4 vị trong Cố Vấn Ðoàn, làm đại diện của Hội để tranh cử vào HÐVHGD.  Ông Nguyễn Hùng Cường là người đã hoạt động trong ngành thư viện rất lâu năm; chính ông là người đã phụ trách việc di chuyển Thư Viện Ðông Dương từ Hà Nội vào Sài Gòn năm 1954 và giữ chức vụ Quản Thủ của Tổng Thư Viện; sau đó ông được đề cử giữ chức Phó Giám Ðốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia và khi Nha nầy bị tách ra làm hai thì ông giữ chức Phó Giám Ðốc Nha Văn Khố Quốc Gia; ông cũng chính là vị đại diện của VNCH tại Hội Nghị Quốc Tế về Nguyên Tắc Biên Mục tại Paris, Pháp vào năm 1961.  Ban Chấp Hành đã thân hành đến nhà ông hai lần (lần đầu chỉ có 3 người là Chủ Tịch, Tổng Thư Ký và Thủ Quỹ; lần thứ nhì thì gồm toàn thể Ban Chấp Hành) để mời ông nhưng ông đều từ chối với lý do là ông đã nghỉ hưu và không đủ sức khoẻ.  Vì thế trong buổi họp ngày 18-4-1974, Ban Chấp Hành quyết định đề cử người viết, với tư cách là Chủ Tịch HTTVVN, làm đại diện của Hội để tranh cử vào HÐVHGD.  Nhờ vị thế và tầm vóc của Hội trong sinh hoạt văn hóa tại thủ đô trong thời gian đó, người viết đã đắc cử với số phiếu cao nhứt (13/15 phiếu).  Tại phiên họp khoáng đại đầu tiên của HÐVHGD Nhiệm Kỳ 2, người viết được toàn thể hội viên bầu vào chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Ðại Chúng, một trong 8 ủy ban của Hội Ðồng.  Người viết đã có chủ định, với tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Ðại Chúng, sẽ cố gắng soạn thảo một Dự Luật về Thư Viện Công Cộng cho VNCH, trình bày và cho thảo luận tại Ủy Ban trước khi đưa ra cho HÐVHGD phê chuẩn và chuyển sang hành pháp để yêu cầu hành pháp thực thi.  Chủ định nầy đã không thành vì biến cố 30-4-1975.  

3.33. Ban Thư Viện Học Tại Ðại Học Vạn Hạnh

Nhận thấy rõ khả năng chuyên môn cũng như tinh thần hoạt động bất vụ lợi của Ban Chấp Hành HTVVN, rất phù hợp với tôn chỉ của Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Giáo sư Ðoàn Viết Hoạt, Phụ Tá Viện Trưởng Ðặc Trách Học Vụ, đã yêu cầu Ban Chấp Hành HTVVN nghiên cứu và thuyết trình cho Hội Ðồng Viện một dự án thiết lập Ban Thư Viện Học cho Viện Ðại Học Vạn Hạnh.  Ngày 30-4-1974, người viết đã đại diện Ban Chấp Hành HTVVN thuyết trình trước Hội Ðồng Viện về dự án nầy và đã được Hội Ðồng Viện đồng thanh chấp thuận.  Ban Cử Nhân Thư Viện Học, trực thuộc Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, Viện Ðại Học Vạn Hanh, với người viết được Viện chỉ định làm Trưởng Ban, được khai giảng vào đầu năm học 1974-75 với 70 sinh viên.  

Trong Mùa Hè 1974, mặc dù rất bạn rộn với Đại Hội Hè, Ban Chấp Hành HTVVN cũng đã hết sức cố gắng hoàn tất chương trình học cho BTVH đầu tiên của VNCH.  Học kỳ đầu tiên của BTVH này đã khai giảng vào đầu năm học 1974-1975 với 70 sinh viên.  BTVH này chỉ mới giảng dạy được hai học kỳ vo71itha2h phần ban giảng huấn và các khòa trình như sau:

  Học Kỳ 1:

 

  • Ông Lâm Vĩnh Thế: Tổng Kê và Phân Loại I
  • Cô Phạm Thị Lệ-Hương: Tổ Chức và Điều Hành Thư Viện
  • Ông Lê Ngọc Oánh: Tuyển Chọn Tài Liệu n
  • Ông Tống Văn Diệu: Lịch sử Thư Viện

Học Kỳ 2:

 

  • Ông Lâm Vĩnh Thế: Tổng Kê và Phân Loại II
  • Cô Phạm Thị Lệ-Hương: Công Tác Khảo Cứu và Trình Bày Luận Văn
  • Ông Lê Ngọc Oánh: Tham Khảo ổng Quát
  • Ông Nguyễn Ứng Long: Anh Ngữ I

 

Học Kỳ 2 khở sự vào khoảng tháng 3-1975 đã hông bao giờ được kết thúc vì biến cố bi thảm 30-4-1975 chấm dứt sự hiện hữu của VNCH.  BTV Học của ĐHVH đã bị chết non, chưa đào tạo được một vị Cử Nhân Thư Viện Học nào cho VNCH.” [26] 

Xin xem chi tiết của chương trình Ban Cử Nhân Thư Viện Học trong phần Phụ Ðính.

3.34. Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt NamTái Ðắc Cử Nhiệm Kỳ 1975

Tại phiên họp khoáng đại thường niên ngày 12-1-1975 (Xem chi tiết ở tài liệu nầy: Biên bản Ðại Hội Ðồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam ngày 12.01.75 bầu cử Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975, Bản Tin Hội Thư Viện Việt Nam, số 1/1975, ngày 1-2-1975, tr. 1-7), phần lớn các anh chị trong Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1974 đã được hội viên tín nhiệm và bầu lại vào Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975 với thành phần như sau: [27]

Chủ Tịch: Ông Lâm Vĩnh Thế

Phó Chủ Tịch: Ông Lê Ngọc Oánh

Tổng Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Hường

Phó Tổng Thư Ký: Ông Tống Văn Diệu

Chánh Thủ Quỹ: Cô Phạm Thị Lệ Hương

Phó Thủ Quỹ: Bà Nguyễn Thị Khuê Giung

Ủy Viên Kế Hoạch: Ông Nguyễn Ngọc Hoàng

Ủy Viên Tổ Chức: Ðại Ðức Thích Lệ Mãnh

Ủy Viên Tài Chánh: Ông Nguyễn Văn Vinh

Ủy Viên Xã Hội: Cô Ðặng Thị Thảo

Ùy Viên Thông Tin Liên Lạc: Cô Tôn Nữ Minh Ngọc

Ủy Viên Thư Viện Học Ðường: Bà Tăng Thị Hoa

Ủy Viên Thư Viện Chuyên Môn: Ông Hoàng Ngọc Hữu

Ủy Viên Thư Viện Ðại Học: Cô Võ Thị Vân

Ủy Viên Thư Viện Công Cộng: Cô Nguyễn Thị Nga

Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975 nầy đã không làm tròn được nhiệm vụ vì biến cố 30-4-1975.  Các khóa huấn luyện, mà khoá đầu tiên dự định sẽ tổ chức vào tháng 4-1975, cũng như Ðại Hội 3 Hè 1975, việc ấn hành Bảng Liệt Kê Tiêu Ðề Ðề Mục, các số TVTS, Bản Tin hàng tháng, v.v., tất cả đều không thực hiện được.  Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975 chỉ ấn hành được một số TVTS duy nhứt, đó là số 24, Bộ mới, Ðệ 1 TCN 1975.  Công tác thứ hai được hoàn thành (tồn lại từ nhiệm kỳ 1974) là việc phiên dịch Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey, Ấn bản 10 Tóm Lược.  Khi người viết mang bản dịch (mỗi bản dịch gồm 3 tập giấy đánh máy trên 500 trang, tổng cộng là 9 tập) đến nộp cho Asia Foundation là cơ quan tài trợ cho dự án phiên dịch quan trọng nầy, theo đúng hợp đồng đã ký kết với họ, vào khoảng cuối tháng 4-1975, thì vị Ðại Diện của Asia Foundation (Ông Julio Andrews) đã rời khỏi Sài Gòn theo lệnh của Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ vì tình hình chiến tranh Việt Nam đã sắp đi vào chung cuộc.  

Hoạt động sau cùng của HTVVN, mỉa mai thay, không dính líu gì đến việc phát triển thư viện cho Miền Nam, là đi cứu trợ các hội viên từ Miền Trung đang tạm trú tại các trại tỵ nạn ở Sài Gòn.  Ban Chấp Hành quyết định cho phép Chủ tịch và Thủ Quỹ rút từ quỹ của HTVVN ra một số tiền là 200.000 đồng để cứu trợ cho hội viên.  Người viết và Cô Thủ Quỹ Phạm Thị Lệ-Hương đã đi đến tận các trại tỵ nạn nầy để trao cho các hội viên, mỗi người một phong bì đựng 5.000 đồng, gọi là tỏ chút tình tương thân tương trợ của Hội đối với hội viên.  

Kết Luận

Thay cho kết luận của bài viết nầy, người viết xin trích lại một đoạn văn đã viết cách đây hơn 30 năm. Trong Lá Thư Chủ Nhiệm, Thư Viện Tập San, số 24, Bộ mới, Ðệ I TCN 1975, người viết, với tư cách Chủ Tịch HTVVN và Chủ Nhiệm của Tập San, đã viết như sau: “Nhiệm kỳ 1975 đang trải dài trước mắt tôi với những khó khăn dễ tiên đoán. Sự suy thoái về kinh tế của năm 1974 dường như có vẻ trầm trọng thêm. Những khó khăn về quân sự, ngoại viện đã làm lu mờ đi tất cả mọi sinh hoạt khác của quốc gia.  Chắc nhiều bạn cũng đang tự hỏi mình như tôi đang tự hỏi tôi rằng những gì chúng ta đang cố gắng thực hiện đây có còn mang một ý nghĩa nào nữa không? Tôi thật sự không thể đoán ra được câu tự trả lời của các bạn nhưng đây là câu tự trả lời của tôi. Tôi nghĩ rằng việc làm của chúng ta để đóng góp vào sự phát triển văn hóa nước nhà còn có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Văn hoá là mẫu số chung của một dân tộc, một quốc gia. Văn hóa sẽ là chất liệu hàn gắn lại sự rạn nứt của một dân tộc vì những dị biệt nhất thời. Chúng ta đang phục vụ văn hóa là đầu tư cho tương lai của đất nước.” Người viết thành thật nghĩ rằng chúng ta, những hội viên có năng lực và đầy nhiệt tình của HTVVN trước 1975, đã không phí phạm thì giờ và công sức cho những chuyện làm vô ích./.   

Hamilton, Ontario, Canada

Sửa chửa và bổ túc xong ngày 15-11-2023

Lâm Vĩnh-Thế, M.L.S.

Librarian Emeritus

Đại Học Saskatchewan 

CANADA 

GHI CHÚ:

  1. Đỗ Văn Anh, “Thư Viện Viện Khảo Cổ,” Thư Viện Tập San, số. 10, Đệ 4 TCN (1970), tr. 19-24.
  2. Nguyễn Trung Quân, “Đôi điều ghi nhớ về trường trung học tổng hợp ở Miền Nam Việt Nam” trong Giáo dục ở Miền Nam Tự Do trước 1975). Santa Ana, California: Lê Văn Duyệt Foundation, 2006, tr. 189-198.
  3. Lê Ngọc Oánh, “Tiến trình phát triển thư viện học đường Việt Nam hiện nay,” Thư Viện Tập San, số 21, Đệ 2 TCN (1974), tr.38-50. 
  4. Đỗ Bá Khê, “Phát triền đại học Miền Nam trước 1975” trong Giáo dục ở Miền Nam Tự Do trước 1975, sđd., tr 152-166.
  5. Ruhe, C.H. William, Norman W. Hoover, and Ira Singer.  Saigon Medical School: an experiment in international medical education: an account of the American Medical Association’s medical education project in South Vietnam, 1966-1975.  Chicago: American Medical Association, 1988.  Section VIII, tr. 61-65.
  6. Nguyễn Văn Thu, “Lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất Thư Viện Quốc Gia,” Thư Viện Tập San, số 3, Đệ 1 TCN (1969), tr. 33-36.
  7. “Khánh thành Thư Viện Quốc Gia,” Thư Viện Tập San, số 16-17, Đệ 2 & 3 TCN (1972), Phần Tin Tức, tr. 66.
  8. Hafenrichter, John Lee, và Lưu Chiêu Hà thông dịch, “Nhận xét về Cơ Quan Phát Triển Thư Viện USAID và về việc mở mang thư viện tại Việt Nam,” Thư Viện Tập San, số 5-6, Đệ 3 & 4 TCN (1969), tr. 28-30.
  9. Lưu Chiêu Hà, “Khóa huấn luyện tu nghiệp về thư viện tại Cơ Quan Phát Triển Thư Viện,” Thư Viện Tập San, số 3, Đệ 1 TCN (1969), tr. 46-47.
  10. Đào Khánh Thọ, “Khu Học Chánh Vùng IV,” trong Giáo dục ở Miền Nam Tự Do trước 1975, sđd, tr. 225-227.
  11. Ban Chấp Hành Trung Ương Hội Thư Viện Việt Nam, Thư Viện Tập San, Số Đặc Biệt (1960), tr. 45.
  12. Phan Vô Kỵ, “Đai Hội Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam, ngày 12 tháng 12 năm 1959: Báo-cáo về tình-hình toàn thể của Hội,” Thư Viện Tập San, Số Đặc Biệt (1960).  Ỡ trang 36, báo cáo ghi rõ: “Hội chúng ta lại hân-hạnh được Ngài Cố-vấn Chính-trị Chính-phủ Ngô-Đỉnh-Nhu nhận làm Chủ-tịch danh-dự.” 
  13. “Biên bản Đại Hội Đồng Hội Thư Viện Việt Nam,” Thư Viện Tập San, số 1, Đệ 1 TCN (1968), tr. 61-66.
  14. “Biên bản Hội Đồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam,” Thư Viện Tập San, số 7, Đệ 1 TCN (1970), tr. 55-59.
  15. “Biên bản Hội Đồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam,” Thư Viện Tập San, số10, Đệ 4 TCN (1970), tr. 39-43.
  16. Ông Phan Hoàng Quý, cùng với Ông Tôn Thất Viễn Bào, của Viện Đại Học Huế, và tác giả của bài viết này đã nhận được học bổng của USAID vào năm 1971 để đi du học tại Hoa Kỳ về ngành Thư Viện Học (1971-1973).  Ông Quý học tại Đại Học Case Western Reserve, ở thành phố Cleveland, Ohio; Ông Bào học tại đại Học Michigan State University, ở thành phố Kalamazoo; và, tác giả bài viết này học tại Đại Học Syracuse, New York. 
  17. “Hoạt động của Chi Hội Thừa Thiên,” Thư Viện Tập San, số 8-9, Đệ 2 & 3 TCN (1970), tr. 52-53.
  18. Lâm Vĩnh-Thế, “Thư viện Trường Kiểu Mẫu Thủ Đức,” Thư Viện Tập San, số 10, Bộ Mới, Đệ 4 TCN (1970), tr. 25-31.
  19. Lâm Vĩnh-Thế, “Một đề nghị với các quản thủ thư viện học đường: tổng kê đơn giản hóa,” Thư Viện Tập San, số 19 Đặc Biệt, Bộ Mới (1973), tr. 35-41.
  20. Lâm Vĩnh-Thế, “Nguyên tắc thiết lập đề mục,” Thư viện Tập San, số 19 Đặc Biệt, Bộ Mới (1973), tr. 77-83.
  21. “Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 1974,” Thư Viện Tập San, số 20, Đệ 1 TCN (1974), tr. 65.
  22. “Lá thư Chủ Tịch,” Bản Tin, số 1 (Tháng 2-1974), tr .2.
  23. Nguyễn Văn Hường và Hoàng Ngọc Hữu, “Thành quả Đại Hội Hè 1974,” Thư Viện Tập San, số 22, Đệ 3 TCN (1974), tr. 60-68.
  24. “Biên bản Đại Hội Đồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam ngày 12-01-1975 bầu cử Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 1975.” Bản Tin, số 1 (Tháng 2-1975), tr. 1-7. 
  25. Nguyễn Văn Toán, Họat động của Hội Thư Viện tại Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục,” Thư Viện Tập San, Số 19 Đặc Biệt (1973), tr. 49-59.
  26. Lâm Vĩnh-Thế.  Tròn nhiệm vụ: hồi ký của một quản thủ thư viện Canada gốc Việt.  California: Nhân Ảnh, 2021, tr. 62. 
  27. “Biên bản Đại Hội Đồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam ngày 12-01-1975 bầu cử Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 1975,” tài liệu đã dẫn bên trên.

Phụ Đính

(Tư liệu Viện Đại học Vạn Hạnh giới thiệu ngành đào tạo quản thủ thư viện.)

Viện Đại Học Vạn Hạnh

Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn

Giới Thiệu Chương Trình Thư Viện Học

Niên Khóa 1974-1975

Trưởng Ban: GS Lâm Vĩnh Thế, M.L.S. (Thư Viện Học)

Syracuse University, New York, Hoa Kỳ

I. Chương trình Cử Nhân Thư Viện Học: Áp dụng từ đầu Niên Khóa 1974-1975

  1. Đối Tượng: dành cho các sinh viên đã học xong và đậu năm thứ Hai tại các Phân Khoa của Viện Đại Học Vạn Hạnh và các Phân Khoa đại học khác.
  2. Mục Tiêu: đao tạo các quản thủ thư viện chuyên nghiệp và cung ứng những kiến thức căn bản để chuẩn bị cho việc theo học các chương trình Cao học và Tiến sĩ về Thư Viện Học tại ngoại quốc sau này.
  3. Điều Kiện Ghi Danh Vào Năm Thứ Ba Ban Thư Viên Học:

      a. Cho các sinh viên dự định lấy hai văn bằng Cử Nhân, Cử Nhân Thư Viện Học và một Cử Nhân khác:

  •  Phải hoàn tất chương trình ấn định cho năm thứ Nhất và năm thứ Hai các Phân Khoa đại học gốc
  • Tiếp tục ghi danh học năm thứ Ba tại Phân Khoa gốc
  • Ghi danh học 26 học phần căn bản chuyên môn dành cho năm thứ Ba Ban Thư Viện Học

      b. Cho các sinh viên dự định lấy 1 văn bằng Cử Nhân Thư Viện Học duy nhất:

  • Phải hoàn tất chương trình ấn định cho năm thứ Hai các Phân Khoa Đại Học gốc
  • Ghi danh học 26 học phần căn bản chuyên môn Thư Viện Học và 12 học phần nhiệm ý được ấn định trong chương trình năm thứ Ba Ban Thư Viện Học.

      c. Cho các sinh viên đã có bằng Cử Nhân thuộc các dại học.  Chỉ phải ghi danh học 26 học phần căn bản chuyên môn Thư Viện Học được ấn định trong chương trình năm thứ Ba Ban Thư Viện Học.

      4. Thành Phần Giáo Sư: Gồm toàn giáo sư trẻ, nhiệt thành, đã tốt nghiệp ngành Thư Viện Học tại ngoại quốc với văn bằng Master về Thư Viện Học, phụ trách công việc giảng huấn theo phương pháp mới đang được áp dụng tại nước ngoài.

      5. Phương tiện học tập: Thư viện Đại Học Vạn Hạnh có một sưu tập đầy đủ về các sách thuộc ngành Thư Viện Học do Ban Giảng Huấn tuyển chọn.  Sinh viên sẽ được thực tập ngay tại Thư viện Đại Học Vạn Hạnh do các Giáo sư trong Ban Giảng Huấn hướng dẫn.  Sinh viên cũng sẽ được hướng dẫn đi quan sát các thư viện tiêu biểu trong Đô thành Sài Gòn.

      6. Nội Dung Chương Trình: Chương trình được soạn thảo theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.

      a. Các môn chuyên nghiệp:

  • Tổ Chức và Điều Hành Thư Viện: Giới thiệu các yếu tố cấu tha2nhcu2ng những hoạt động hay dịch vụ của thư viện.
  • Tổng Kê và Phân Loại I: Nghiên cứu các nguyên tắc căn bản vể tổng kê, thiết lập tiêu đề đề mục và phân loại sách.
  • Tuyển chọn tài liệu: Các nguyên tắc căn bản trong việc tuyển chọn sách báo, tài liệu thư viện, thị trường xuất bản sách báo.  Ấn định các chính sách, tiêu chuẩn trong việc tuyển chọn.
  • Lịch Sử Thư Viện: Khảo sát sự phát triển của thư viện từ thời thượng cổ đến hiện đại.  Tìm hiểu về tiến trình phát triển của quyển sách trong cơ cấu và diễn trình truyền thông của xã hội hiện đại.
  • Tổng Kê và Phân Loại II: Tổng kê các tài liệu không phải là sách, đặc biệt chú trọng tới báo chí.  Các vấn đề phát triển về kỷ thuật trong địa hạt này.
  • Tham Khảo Tổng Quát: Tuyển chọn, sử dụng và lượng giá các nguồn tài liệu căn bản và các nguyên tắc chỉ đạo về các dịch vụ tham khảo.
  • Anh Ngữ I và II: Học chuyên biệt về các danh từ chuyên môn thư viện.  Dùng phương pháp nghiên cứu đặc thù trong lãnh vực thư viện học để giúp sinh viên phong phú hóa khả năng Anh ngữ để sử dụng những tài liệu ngoại ngữ.
  • Tham Khảo Chuyên Biệt Về Khoa Học Xã Hội: Nghiên cứu, lượng giá và sử dụng các nguồn tài liệu trong các lãnh vực của Khoa Học Xã Hội như là Xã Hội Học, Kinh Tế Học, Chính Trị Học, Địa Lý, Giáo Dục, vv.
  • Tham Khảo Chuyên Biệt Về Khoa Học Nhân Văn: Nghiên cứu, lượng giá và sử dụng các nguồn tài liệu trong các lãnh vực của Khoa Học Nhân Văn như Triết Học, Tôn Giáo, Văn Chương, Nghệ Thuât, vv.
  • Nguồn Tài Liệu Thư Viện Đại Học: Nghiên cứu và lượng giá các sách báo, tài liệu để thiết lập một sưu tập cho một thư viện đai học.
  • Nguồn Tài Liệu Thư Viện Trung Học: Nghiên cứu và lượng giá các sách báo, học liệu trong thư viện liên quan đến việc tăng trưởng và phát triển của thiếu niên, và đáp ứng nhu cầu của các môn học trong chương trình trung học và các hoạt động ngoài chương trình.
  • Sách Báo Nhi Đồng: Nghiên cứu và lượng giá các tài liệu cần thiết cho thiếu nhi liên hệ đến nhu cầu, khuynh hướng ham chuộng và khả năng đọc sách của các nhi đồng.
  • Công Tác Khảo Cứu Và Trình Bày Luận Văn: Giới thiệu các phương pháp thích ứng trong việc khai thác có hệ thống các tài liệu và dữ kiện để khảo sát một vấn đề.  Chú trọng đến cách đề nghị một dự án khảo cứu và các hình thức soạn thảo cùng trình bày một luận văn.
  • Phân Tích Cơ Cấu Áp Dụng Trong Thư Viện: Giới thiệu các hoạch định cơ cấu và các nhiệm vụ.  Chú trọng đến sự phân tích, phác họa và thực hiện các thư viện với các hệ thống.
  • Hội Thảo Về Chiều Hướng Hiện Tại Trong Ngành Thư Viện: Nghiên cứu các khuynh hướng xã hội, văn hóa và kỷ thuật có ảnh hưởng đến mục tiêu, trách nhiệm và sự điều hành thư viện trong nước và trên thế giới.  Tìm hiểu khả năng tiếp nhận những khuynh hướng đó tại Việt Nam.
  • Ấn Phẩm Công: Nghiên cứu về cách tuyển chọn, tổ chức và sử dụng các ấn phẩm của các tổ chức quốc tế, các chính quyền quốc gia và địa phương.  Cách thức lưu trữ và khai thác văn khố.
  • Anh Ngữ III và IV: Hội thảo bằng Anh ngữ về các vấn đề chuyên môn thư viện học, đặc biệt về các chiều hướng hiện đại.

      b. Các môn nhiệm ý: gồm trong lãnh vực sau đây:

  • Triết Học, Tâm Lý Học, Ngữ Học, Văn Chương, Sử Địa … để làm phong phú thêm kiến thức tổng quát cho các sinh viên Ban Thư Viện Học.

      7. Tương Lai Sinh Viên: Sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân Thư Viện Học:

  • Có đủ khả năng về tham khảo, sưu tầm để đi sâu vào các lãnh vực khảo cứu hay để chuẩn bị các dữ kiện cho các luận án tương lai.
  • Có đủ khả năng để phục vụ trong các thư viện như Thư Viện Quốc Gia, các thư viện đại học và khảo cứu, các thư viên trung, tiểu học, các thư viện chuyên môn như thư viện của các ngân hàng, các xí nghiệp công tư các cơ sở báo chí, xuất bản, vv.
  • Có đầy đủ kiến thức để đi xa hôn về các ngành khảo cổ, văn khố và thư viện
  • Có đầy đủ kiến thức cùng khả năng để xin hưởng một học bổng xuất ngoại du học về Ban Cao học và Tiến sĩ Thư Viên Học.

II. Chương Trình Nhiệm Ý: Áp dụng từ đầu niên khóa 1975-1976:

  1. Đối Tượng: Dành riêng cho sinh viên năm thứ Tư và Ban Cao học của Đại Học Vạn Hạnh.
  2. Mục Tiêu: Hỗ trợ cho công tác tham khảo, nghiên cứu và trình bày một luận án.
  3. Điều Kiện Ghi Danh: là sinh viên năm thứ Tư hay sinh viên Ban Cao học thuộc các Phân Khoa của Đại Học Vạn Hạnh.
  4. Nội Dung Chương Trình: Gồm 3 môn nhiệm ý:
  • Tham Khảo Chuyên Biệt Về Khoa Học Xã Hội
  • Tham Khảo Chuyên Biệt Về Khoa Học Nhân Văn
  • Công Tác Khảo Cứu Và Trình Bày Luận Văn

(Xem chương trình chi tiết trong học trình Cử Nhân)

III. Chương Trình Huấn Luyện Căn Bản Về Thư Viện Học: Áp dụng tư đầu năm 1975:

  1. Đối Tượng: Mở cho công chúng
  2. Mục Tiêu:
  • Để có một kiến thức căn bản về Thư Viện Học
  • Để trở thành một nhân viên phụ tá chuyên môn tại thư viện
  • Để chuẩn bị theo học Ngành Cử Nhân Thư Viện Học sau này

      3. Điều Kiện Ghi Danh: Có bằng Tú Tài II hoặc tương đương.

Mọi chi tiết khác, xin hỏi tại Văn Phòng

Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn

Viện Đại Hoc Vạn Hạnh

222 Trương Minh Giảng

Saigon 3

Điện thoại: 25946 / 94876, máy phụ 28.

 

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ