Connect with us

Văn hóa xã hội

Vấn đề giáo dục hệ giá trị trong sách giáo khoa tiếng Việt cho trẻ em

Nguyễn Lương Hải Khôi

Published on

(Bức tranh nghịch đảo “Chiều vàng” của hoạ sỹ Nguyễn Đại Giang. Ảnh minh hoạ.)

Nguyễn Lương Hải Khôi

Trong năm học 2020 – 2021, Bộ Giáo dục Việt Nam bắt đầu triển khai chính sách “một chương trình khung, nhiều bộ sách giáo khoa”. Đây là một chính sách tiệm cận với triết lý giáo dục tự do của các nước tiên tiến, theo đó, chỉ thống nhất về chương trình khung và điều kiện để có nhiều phương thức giáo dục đa dạng dựa trên chương trình khung đó. Dưới đây là tư vấn của tôi cho một nhóm biên soạn Sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc tiểu học ở giai đoạn đó. Giáo dục là một khoa học liên ngành. Đằng sau câu chuyện giáo dục ngôn ngữ là các vấn đề thể chế, kinh tế, thời đại, văn hoá, lịch sử, con người. Không có vấn đề nào ít quan trọng hơn vấn đề nào. Bài viết này trình bày một cách tiếp cận liên ngành như vậy cho Nhóm biên soạn Sách Giáo khoa đó, đồng thời 

Dẫn nhập

Sách giáo khoa dạy tiếng Việt cho học sinh, thông qua thiết kế bài đọc cho trẻ, phải kết hợp việc học chữ với hai mục đích: xây dựng những giá trị mới, sửa chữa những phản giá trị đã hình thành gần một thế kỷ qua dưới chế độ toàn trị. Mục đích này chỉ là gián tiếp nhưng quan trọng tương đương với mục đích trực tiếp (dạy ngôn ngữ). Những nội dung tôi đề xuất là căn cứ trên những “phản giá trị cần sửa chữa” và “những giá trị cần xây dựng” dưới đây. 

Những giá trị cần xây dựng

  1. “Mình được là mình” (Tự do)
  2. Sáng tạo 
  3. Trung thực
  4. Làm việc thiện, giúp đỡ người khác (Yêu thương đồng loại)
  5. Yêu thương tự nhiên (động vật, rừng, biển, môi trường sống)
  6. Tinh thần mạo hiểm, Khám phá thế giới
  7. Tinh thần khởi nghiệp (Nhật Bản đã nghiên cứu để dạy trẻ em từ lớp 1)

Những bài đọc dưới đây giúp trẻ nhỏ làm quen với tinh thần “mình được là mình”, tinh thần sáng tạo và giúp đỡ người khác. 

Dưới đây trình bày Triết lý giáo dục của bài học và soạn mẫu một số Bài đọc cụ thể. 

Triết lý giáo dục: đặt người học vào giữa những nghịch lý 

Quá trình giáo dục cần đặt cả người dạy và người học vào giữa những nghịch lý để họ lựa chọn kiến thức, thảo luận, nghiên cứu để tìm phương pháp giải quyết nghịch lý ấy. 

Tại sao? Vì nghịch lý là bản chất của cuộc sống, ở cấp độ cá nhân và xã hội. Con người trưởng thành thông qua quá trình vượt lên những nghịch lý. 

Để vượt lên nghịch lý, người ta cần tự do tư duytinh thần sáng tạo. Nhưng động lực nền tảng của sáng tạo phải là lòng nhân ái, mong muốn giúp đỡ người khác vượt qua khó khăn, và tinh thần không bỏ cuộc, không chấp nhận nghịch lý. Điều này đúng với mọi lứa tuổi, kể cả tuổi mẫu giáo, dù cấp độ và biểu hiện hoàn toàn khác nhau. 

Thiết kế bài học

Những giá trị nói trên không nên xuất hiện một cách thô thiển và sống sượng như những khẩu hiệu trong bài đọc mà cần được thể hiện gián tiếp thông qua những câu chuyện sinh động.

Bài học được thiết kế theo công thức: trình bày một nghịch lý, hoặc phải chọn A hoặc phải chọn B, trong khi con người cần chọn cả hai. Con đường để các em vượt qua nghịch lý này là sáng tạo.

Bài học sẽ gồm phần bài đọc, phần giải nghĩa từ khó, phần hướng dẫn học và viết chữ… Những nội dung có tính chất kỹ thuật của ngành giáo dục ngôn ngữ xin nhường cho Nhóm biên soạn. 

Chủ đề “Nhà máy Chế tạo Ước mơ”

Đề xuất dùng cho SGK lớp 5 cho học sinh bản ngữ Việt Nam hoặc lớn hơn. Đối với người học mà tiếng Việt không phải là bản ngữ, phải dựa trên đánh giá năng lực tiếng Việt của người học để lựa chọn bài học thích hợp. 

Bài 1. Bài thơ chủ đề: “Sáng tạo thay đổi thế giới” 

Sáng tạo là niềm vui của trí tưởng tượng và ước mơ,

Không phải là cuộc thi hơn thua…

… giữa những đứa trẻ.

Khi Janssen nhìn vào thế giới vô cùng bé

Bằng chiếc kính hiển vi,

Khi Huygens phát minh đồng hồ quả lắc,

Cho thế giới vận hành chính xác.

Khi James Watt tạo ra động cơ hơi nước,

Hay Tesla phát minh kỹ thuật điều khiển từ xa,

Khi Frank Whittle sáng chế động cơ phản lực…

Đó là lúc:

Con người đứng chân trên mặt đất,

Nhưng tâm hồn bay tới những vì sao. 

Đỉnh Hy Mã Lạp Sơn không quá cao. 

Vực Mariana không quá sâu. 

Thái Bình Dương cũng không quá rộng. 

Em yêu những khung trời, 

chưa có người bay tới. 

Em yêu những con người,

bay tới bao chân trời.

Em thay đổi thế giới,

Bằng những sáng tạo mới.

Với niềm kiêu hãnh lớn,

của con người dũng cảm. 

Giải nghĩa từ khó: Sáng tạo, trí tưởng tượng, ước mơ, thế giới, kính hiển vi, phát minh, vận hành, chính xác, động cơ, kỹ thuật, điều khiển, phản lực, tâm hồn, niềm kiêu hãnh, dũng cảm. 

Bài 2. Tổ ong thông minh 

Ngôi trường làng của Bình An có Nhà máy Chế tạo Ước mơ. Chúng em cùng nhau làm ra những điều mình mơ ước ở đó. 

Ở trong trường, chúng em cùng nhau làm một vườn hoa, nuôi ong, lấy mật, bán được nhiều tiền và dùng tiền đó mua thiết bị cho Nhà máy Chế tạo Ước mơ của trường mình. 

Mỗi khi lấy mật, chúng em thường phải khui tổ ong ra. Nếu không làm khéo, các bạn ong sẽ hoảng sợ và đốt chúng em. Lần nào trong lớp cũng có bạn bị ong đốt rất đau. 

Ba mẹ chúng em lo lắng và đề nghị nhà trường đóng cửa vườn hoa nuôi ong. Chúng em rất buồn, vì nếu duy trì vườn ong thì dễ bị đốt mỗi khi lấy mật, còn xóa bỏ nó đi thì chúng em không còn một khu vườn yêu thích có nhiều mật ong nữa. 

Cả lớp 2D cùng nhau đến Nhà máy Chế tạo Ước mơ để cải tiến thùng nuôi ong. Đến cuối mùa đông, chúng em đã sáng chế được một loại tổ ong thông minh. Bên trong tổ ong thông minh có một hệ thống gồm nhiều vòi tự động dẫn mật ra ngoài. 

Từ đó chúng em có thể lấy mật mà không cần chạm đến ong trong tổ. Ba mẹ yên lòng, không ai yêu cầu đóng cửa vườn ong nữa. 

Bài 3. Chiếc xe tự lái

Ngôi trường làng của Bình An có Nhà máy Chế tạo Ước mơ. Chúng em cùng nhau làm ra những điều mình mơ ước ở đó. 

Hôm nay, Bình An kể với cô giáo và các bạn lớp 2D rằng bà nội em đang sống ở miền núi xa và lạnh, còn bà ngoại sống ở một vùng cát trắng nhiều nắng và gió. Bà nội đang bị viêm phổi còn bà ngoại bị đau lưng. Bình An muốn đi thăm hai bà. Nhưng ba mẹ nói ba mẹ phải đi làm, không thể mang em đi, còn em cũng không được nghỉ học. Bây giờ phải làm sao đây?

Cô giáo Phương Mai cùng cả lớp đến Nhà máy Chế tạo Ước mơ ở trong trường để tạo ra một chiếc xe hơi tự lái. Bình An có thể học bài trong khi chiếc xe tự lái đưa em đến miền núi xa thăm bà nội và miền cát trắng để thăm bà ngoại.  

Bạn Ngọc Liên chế tạo cho chiếc xe hơi đó bốn cánh quạt ở bốn góc, giúp chiếc xe có thể trở thành máy bay, vượt qua sông, qua núi thật nhanh. 

Bạn Thuỷ chế tạo một chiếc máy giúp Bình An có thể nhìn thấy và nghe cả lớp học bài cùng cô giáo, ngay cả khi em đang ngồi trên chiếc xe tự lái đi thăm bà. 

Bạn Như làm cho cô giáo một cái máy, giúp cô có thể theo dõi hành trình của Bình An để giúp đỡ em khi cần thiết. 

Ba ngày sau, Nhà máy Chế tạo Ước mơ của ngôi trường làng em đã làm xong chiếc xe diệu kỳ. Cả lớp vẫy chào tiễn Bình An lên đường. 

Bài 4. Dòng kênh chảy mãi 

Trong ngôi trường làng của Bình An có Nhà máy Chế tạo Ước mơ. Chúng em cùng nhau làm ra những điều mình mơ ước ở đó. 

Ngôi làng của Bình An nằm ở miền quê đất cằn sỏi đá. Mỗi năm khi mùa khô đến, dòng sông Ý Tưởng chảy qua làng cũng không còn nước tưới cây. Làng em tốn nhiều nước tưới, nhưng sử dụng lãng phí và không bao giờ đủ. 

Ba mẹ em nói chúng ta đương nhiên chấp nhận sự vất vả và khó khăn của nghề nông. Nhưng Bình An và các bạn lớp 2D nghĩ rằng Nhà máy Chế tạo Ước mơ trong trường mình có thể làm ba mẹ bất ngờ. 

Chúng em học theo các bạn nhện, cùng nhau chế tạo một mạng lưới tưới nước giống như mạng nhện, gồm nhiều ống nhỏ tỏa đi khắp cánh đồng, dẫn nước tưới từng gốc cây. 

Hệ thống tưới nước của chúng em có máy tính điều khiển. Nó có thể tự nhận biết độ ẩm ở từng rễ cây để tự động mở van và đóng lại. Nó có thể nhận biết cây nào cần tưới bao nhiêu nước để tưới riêng cho từng cây một lượng nước thích hợp với nó. 

Hệ thống tưới nước của các bạn lớp 2D giống như một dòng kênh chảy mãi. Nó giúp cánh đồng làng em sử dụng nước hợp lý. Cánh đồng tươi tốt dù dòng sông qua làng vẫn chỉ có rất ít nước như xưa.

Bài 5. Công nghệ làng tôi 

Ngôi trường làng của Bình An có Nhà máy Chế tạo Ước mơ. Chúng em cùng nhau làm ra những điều mình mơ ước ở đó. 

Hôm nay cô giáo Phương Mai cùng các bạn lớp 2D đến Nhà máy Chế tạo Ước mơ để thảo luận về ngôi làng mình đang sống. 

Làng em nằm bên bến sông Ý Tưởng. Từ hơn hai mươi năm trước, nhiều người trong làng bỏ nghề nông chuyển sang sản xuất giấy. Làm giấy giúp đời sống trong làng tốt hơn nhưng nó xả nhiều chất thải độc hại xuống dòng sông của làng. 

Nếu không làm giấy nữa, người trong làng sẽ không có gì để sống. Còn nếu tiếp tục sản xuất giấy, dòng sông sẽ chết, ngôi làng cũng không còn. 

Vậy chúng em nên làm gì bây giờ? 

Sau một giờ tranh luận sôi nổi, một số bé cho rằng phải thay đổi cách ngôi làng làm giấy. Một số bé khác nghĩ rằng cần có cách để những chủ xưởng giấy bảo vệ dòng sông chảy qua làng trong khi vẫn làm được giấy. 

Bài 6. Cái bếp diệu kỳ 

Trong ngôi trường làng của Bình An có Nhà máy Chế tạo Ước mơ. Chúng em cùng nhau làm ra những điều mình mơ ước ở đó. 

Ngôi làng của Bình An rất nghèo, ít người có tiền để sử dụng bếp gas và bếp điện. Mọi người thường dùng lò nấu bằng than. Bác sỹ về làng nói rằng lò than tạo ra nhiều khói độc hại, gây cho dân làng nhiều loại bệnh nguy hiểm. 

Không dùng lò than nữa thì không nấu ăn được, mà tiếp tục dùng lò than thì phải chịu thêm nhiều bệnh tật. 

Nhiều người trong làng nói rằng chúng ta nên chấp nhận điều đó vì không thể nào khác được. Nhưng Bình An cùng các bé lớp 2D cùng nhau đến Nhà máy Chế tạo Ước mơ của trường mình để suy nghĩ cách vượt qua điều đó. 

Các em đã chế tạo được một loại bếp đốt bằng than nhưng không xả ra khói. Thế là làng em vẫn có bếp lò để dùng nhưng không còn ô nhiễm khói than nữa. 

 

Continue Reading

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ