Lịch sử Việt-Mỹ
Sự hình thành tín ngưỡng Hồ Chí Minh: truyền thống Việt Nam và các biến tướng (Phần 2)
Published on
By
Olga DrorTác giả: Olga Dror, Giáo sư sử học tại Texas A&M University.
Bản gốc: Establishing Hồ Chí Minh’s Cult: Vietnamese Traditions and Their Transformations, The Journal of Asian Studies, Vol. 75, No. 2 (MAY 2016), pp. 433-466
Người dịch: Nguyễn Tiến Trung
HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ SÙNG BÁI ÔNG TRONG NỀN HỌC THUẬT
Tại Việt Nam, có tới hàng trăm tác phẩm đã viết về Hồ Chí Minh. Tất cả đều duy trì hình ảnh của một nhà lãnh đạo cách mạng kiên trung, người cha của nhân dân mà không có bất kỳ phân tích phê bình nào về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Ở phương Tây, các tác phẩm sớm nhất xuất hiện vào cuối những năm 1940 và nhìn Hồ Chí Minh từ góc độ chính trị, tập trung vào vị trí của ông như một anh hùng dân tộc và nhà giải phóng, hoặc như một điệp viên của Liên Xô hoặc của Quốc tế Cộng Sản. (Mohan 1951; Renaud 1949; Rous 1947).
Trong những năm 1960 và 1970, một số tiểu sử của Hồ Chí Minh đã được xuất bản, một vài cuốn trong số đó có tính khai trí ngang ngửa với tiêu đề của chúng; ví dụ: Ho-chi-Minh: Ein leben für Vietnam (Hồ Chí Minh: Một cuộc đời cho Việt Nam; Stuhlmann 1960); Hồ Chí Minh, notre camarade (Hồ Chí Minh, đồng chí của chúng tôi; Figuères và Fourniau 1970); Hồ Chí Minh, Huyền thoại Hà Nội (Archers 1971); Hồ Chí Minh, sự trân trọng (Burchett 1972); và Hồ Chí Minh: Giới thiệu Tiểu sử (Fenn 1973). David Halberstam’s Ho (1971) cũng có thể góp tên trong danh sách này, vì một nhà phê bình đã mô tả nó là “một bài hát kỷ niệm hơn là một cuốn tiểu sử” (Kirkus Review 1971).
Trong những năm 1960 và 1970, và đặc biệt là sau khi Hồ Chí Minh qua đời vào tháng 9 năm 1969, các tác phẩm học thuật nghiêm túc hơn đã xuất hiện, chủ yếu bằng tiếng Pháp, có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc đời của Hồ Chí Minh (Handache 1970;2 Kobelev 1979; Lacouture 1967, Năm 1968; Rageau 1970; Sainteny 1970, 1972).
Trong ba thập kỷ gần đây, các công trình học thuật có tính gợi mở đã xuất hiện, bắt đầu từ các học giả người Pháp gốc Việt Nguyễn Thế Anh (1983, 1990), Daniel Hémery (1990, 1992) và Thu Trang Gaspard (1992).
Bước sang thế kỷ được ghi dấu bằng một số các chuyên khảo mang tính học thuật được xuất bản, đã giúp chúng ta có được những hình dung phức tạp về cuộc đời Hồ Chí Minh. Tại Mỹ, cuốn sách của William Duiker (2000) đã trình bày toàn bộ cuộc đời của Hồ Chí Minh, trong khi Sophie Quinn-Judge (2002) tập trung công trình của mình vào những năm từ 1919 đến 1941.
Học giả người Ý về Việt Nam Pino Tagliazucchi (2004) đã xuất bản phiên bản riêng của ông về tiểu sử Hồ Chí Minh, tập trung vào khía cạnh chính trị trong những năm tiền cách mạng của ông và chủ yếu dựa vào các nguồn thứ cấp bằng cả ngôn ngữ phương Tây và tiếng Việt.
Tất cả các công trình này đều tái hiện các sự kiện trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, nhưng hầu như không đề cập đến quá trình Hồ Chí Minh được thánh hóa.
Duiker (2000, 562–80) bổ sung một phần kết có tựa đề “Từ con người đến thần thoại”, nhưng tập trung vào giai đoạn sau của cuộc đời Hồ Chí Minh và sự phát triển của giáo phái sau khi ông qua đời.
Duiker gợi ý rằng “chức năng chính của Hồ Chí Minh trong giữa những năm 1960 là phục vụ với tư cách là “Bác Hồ kính yêu”, đến thăm các trường học, nhà máy và nông trường tập thể để thúc đẩy sự nghiệp chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước” (553).
Nhưng, dễ hiểu, khi đó, vì không phải là mục đích của các công trình đó, Duiker và các tác giả đã đề cập ở trên trên không tìm hiểu sự hình thành hoặc duy trì sùng bái của Hồ Chí Minh.
Hồ Tài Tuệ Tâm, một sử gia Việt Nam thế kỷ XX, đã ghi nhận trong một bài báo rất thú vị rằng “Sự sùng bái Hồ Chí Minh, được chính Hồ Chí Minh chăm sóc cẩn thận, đã bắt đầu lâu trước khi ông qua đời vào năm 1969,” nhưng bài báo của bà tập trung vào di cảo của Hồ Chí Minh, sử dụng ví dụ về bảo tàng Hồ Chí Minh ở Hà Nội (Hồ Tài 1995, 274).
Gần đây Marina Marouda, một nhà nhân chủng học người Anh, đã khám phá sự phát triển gần đây của tín ngưỡng Hồ Chí Minh ở Việt Nam đương đại (Marouda 2013).
Trong cuốn sách mới nhất của mình, David Marr đã thực hiện một bước tiến để xem xét sự hình thành của sự sùng bái của Hồ Chí Minh vào năm 1945–46, nhưng bị bối rối bởi sự mở rộng của chủ đề mà ông chỉ dành bốn trang cho nó (tháng 3 năm 2013, 561–65).
Tiêu đề cuốn sách hấp dẫn của học giả người Pháp Pierre Brocheux (2003), Hô Chí Minh: Du révolutionnaire à l’icône (Hồ Chí Minh: Từ nhà cách mạng đến biểu tượng), gợi cho tôi rằng đó không chỉ là một cuốn tiểu sử, mà đã lưu tâm đến tín ngưỡng Hồ Chí Minh hơn các tác phẩm khác.3
Trên thực tế, Brocheux chỉ viết một phần ngắn về vấn đề này với tựa đề “Từ huyền thoại đến thần thoại” (Brocheux 2007, 177–82). Brocheux theo dõi tín ngưỡng Hồ Chí Minh từ thời kỳ tiền Cách mạng: “[Đến năm 1945], các yếu tố huyền thoại về Hồ Chí Minh đã được đặt ra; bức chân dung lý tưởng của người đàn ông, câu chuyện huyền thoại của quá khứ, và việc sử dụng hình ảnh đại diện này để huy động người dân và thúc đẩy họ hành động. Điều này đạt được thông qua tất cả các phương tiện có thể, từ nghệ thuật đồ họa đến tạc tượng, điện ảnh, sân khấu, thơ ca, các bài hát, giai điệu trẻ thơ, và giáo dục trong trường học” (179).
Ông sử dụng câu bị động trong đoạn văn này, nhưng ngay sau đó ông giải thích chi tiết về các tác nhân tạo ra sự sùng bái: “Sự sùng bái cá nhân thường là công việc của những người tùy tùng (hay chúng ta nên nói là hội đồng?), nhưng liệu có thể lan truyền mà không được sự đồng ý, thậm chí là khuyến khích của đối tượng?” (180).
Brocheux khẳng định rằng điều đó là có thể và đã xảy ra. Ông gợi ý rằng việc lập ra giáo phái này nhằm mục đích thống nhất đất nước nhưng cũng để cô lập Hồ Chí Minh trên bệ đỡ, tách biệt khỏi những người khác.
Để ủng hộ quan điểm này, ông đề cập đến sự vi phạm mong muốn được hỏa táng và không được để người khác thăm viếng của Hồ Chí Minh, như ông đã thể hiện rõ ràng trong di chúc của mình. “Việc làm sai lệch bản Di chúc và những gì sau khi khám nghiệm tử thi Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ những người chịu trách nhiệm về tín ngưỡng của ông ta, về chức năng của tín ngưỡng, và cả về địa vị thực sự của Hồ Chí Minh trong lòng chế độ” (180).
Chỉ tập trung vào những năm cuối đời của Hồ Chí Minh, Brocheux bảo vệ Hồ Chí Minh khỏi bất kỳ trách nhiệm hoặc vai trò nào trong việc dàn dựng giáo phái của chính mình.4 Ông định nghĩa sự sùng bái sau khi chết của Hồ Chí Minh là một nhân vật gần như mang tính tôn giáo (182).
Bài viết này tập trung vào vai trò của Hồ Chí Minh trong hình thành tín ngưỡng của ông, đặc biệt chú ý đến tiểu sử và tự truyện của ông, ngày sinh, gia đình và di chúc cuối cùng của ông. Tôi cho rằng Hồ Chí Minh là công cụ trong sự hình thành tín ngưỡng của ông và một số khía cạnh của tín ngưỡng Hồ Chí Minh khác với những gì thường được cho là tập quán truyền thống của Việt Nam, và thay vào đó thể hiện sự mở rộng sang Việt Nam của các tập quán phát sinh tại Liên Xô, vốn đã trở nên phổ biến trong thế giới các nước theo chủ nghĩa Mác-Lênin vào giữa thế kỷ XX.
Tôi có đề cập đến tài liệu cần cân nhắc của mình tác phẩm gần như được xuất bản trong lúc Hồ Chí Minh còn sống với tựa đề “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (Vignettes of President Ho’s life and activities)5 của Trần Dân Tiên, đó là bản tường thuật tổng thể về cuộc đời của Hồ Chí Minh và là một trong những nền tảng cho sự sùng bái ông.6
TIỂU SỬ (TỰ TRUYỆN) ĐẦU TIÊN
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong Lễ Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Trần Dân Tiên đã lần đầu tiên nhìn thấy Hồ Chí Minh. Trần Dân Tiên muốn viết tiểu sử của Hồ Chí Minh. Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và nước ngoài mong muốn làm được điều đó, nhưng dường như Hồ Chủ tịch không thích nói về cuộc đời của mình.
Ngày hôm sau, Trần Dân Tiên viết thư cho Hồ Chủ tịch để xin gặp. Cùng ngày hôm đó, anh nhận được phản hồi từ chủ tịch mời anh đến tư dinh. Vào lúc 7 giờ 25 phút sáng ngày 4 tháng 9 năm 1945, Trần Dân Tiên gặp gỡ và trò chuyện với Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ rằng viết tiểu sử ông có thể là một ý tưởng hay. Tuy nhiên, ông giải thích rằng thời điểm bấy giờ vẫn chưa thích hợp, vì còn nhiều nhiệm vụ cấp bách khác – người dân thì chết đói và sau tám mươi năm nô lệ thuộc địa quốc gia đã bị tàn phá trên diện rộng. Tiểu sử sẽ phải chờ đợi.
Không nản lòng trước điều này, Trần Dân Tiên quyết định tìm và phỏng vấn những người, dù là người Việt Nam hay người nước ngoài, những người biết Hồ Chí Minh. Cách làm này dù khó khăn đến đâu rồi cũng có kết quả, chỉ trong vòng hai năm, Trần Dân Tiên đã thu thập đủ tư liệu để viết truyện về Hồ Chủ tịch.
Chúng tôi biết được tất cả những điều này từ lời tựa của Trần Dân Tiên cho cuốn sách đến từ những nỗ lực của ông. Trần Dân Tiên thừa nhận rằng nhiều giai đoạn trong cuộc đời của Hồ Chí Minh đã không được kể lại. Ông viết rằng đây có thể là những thời kỳ quan trọng nhất, nhưng ông không biết gì về chúng và ông cho rằng không ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh biết về chúng.
Sau phần mở đầu này, Trần Dân Tiên dẫn dắt độc giả của mình vào một cuộc hành trình bắt đầu từ một Hồ Chí Minh ở tuổi thanh niên xuất thân từ tỉnh Nghệ An thuộc Bắc Trung bộ; vào Sài Gòn, rồi từ đó ông lên đường sang xứ lạ để học hỏi và tìm đường cứu nước; đến Marseille và Le Havre ở Pháp; đến những chuyến đi vòng quanh thế giới, đến London, Paris, Liên Xô, Trung Quốc, Hồng Kông; và cuối cùng, trở lại Việt Nam, nơi ông lãnh đạo Việt Minh, Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, làm đội tiên phong của cuộc cách mạng. Ông tuyên bố chiến thắng bằng bản Tuyên ngôn Độc lập, đây cũng là lúc Trần Dân Tiên và nhiều người khác được nhìn thấy ông lần đầu tiên. Sự kiện này là khởi đầu và chưa phải là kết thúc của cuộc đấu tranh giành độc lập. Trần Dân Tiên đưa độc giả đi qua hai năm đầu của cuộc đấu tranh sau và dừng lại ở đó.
Sáng tác và Tác giả: Trần Dân Tiên và Hồ Chí Minh
Ấn bản còn lưu hành ở Việt Nam cho đến ngày nay là ấn bản xuất bản năm 1955 tại Hà Nội (Trần Dân Tiên 1955). Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng: Anh (Trần Dân Tiên 1958a), Nga (Trần Dân Tiên 1958b), Indonesia (Trần Dân Tiên 1959), Esperanto (Trần Dân Tiên 1960), và Tiếng Pháp (Trần Dân Tiên 1972, 9–108).7
Nhưng ấn bản tiếng Việt năm 1955 không phải là ấn bản đầu tiên của tác phẩm. Một số nhà nghiên cứu ghi lại sự xuất hiện đầu tiên của nó ở Paris vào năm 1948 bằng tiếng Pháp.8 Tuy nhiên, tôi vẫn chưa tìm thấy ấn bản này hoặc bất kỳ ai đã thực sự xem nó.
Nhưng Jean Sainteny, một người Pháp vào năm 1946 đã đàm phán với Hồ Chí Minh về các điều khoản của một “hiệp định” giữa Pháp và VNDCCH, đề cập đến nó trong cuốn sách của ông, mô tả nó là nỗ lực “để xác nhận các khía cạnh đạo đức và khổ hạnh nhưng nhu mì và ôn hòa của người đàn ông được gọi là ‘Bác Hồ tốt bụng’” (Sainteny 1970, 27). Những ấn bản sớm nhất của tác phẩm mà tôi tìm được là bản tiếng Việt và tiếng Trung xuất bản năm 1949.
Hoàng Nguyên, cùng một nhóm khác, được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm thành lập Sở Thông tin của VNDCCH tại Rangoon, Miến Điện, cho biết vào năm 1948, họ đã mang từ Việt Nam sang hai cuốn sách, trong đó có một cuốn là Những Mẩu Chuyện viết bằng tiếng Pháp. Nó được dịch ra nhiều thứ tiếng và gửi đi các nước khác để phát tán “nhằm đáp ứng một câu hỏi lớn thời bấy giờ: Hồ Chí Minh, người đã đứng lên thành lập nhà nước Việt Nam độc lập và khéo léo lãnh đạo cuộc Kháng chiến thực dân Pháp, là ai? ” (Hoàng Nguyên 1991, 55).
Hoàng Nguyên phản ánh rõ tình hình lúc bấy giờ. Sau cơn phấn chấn và hứng khởi trong ngày Tuyên ngôn Độc lập tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập đã lâm vào tình thế hết sức khó khăn. Người Pháp quyết tâm chiếm lại thuộc địa mà họ đã mất vào tay người Nhật trong Thế chiến thứ hai. Lực lượng Việt Minh đáp trả bằng cách cầm vũ khí.
Chế độ mới gây chiến với Pháp trong khi bị cả Hoa Kỳ và Liên Xô coi thường. Trung Quốc, mà Hồ Chí Minh cố gắng kêu gọi, đang bận tâm về cuộc nội chiến giữa những người Quốc Dân và Cộng sản. Mối quan hệ tồn tại giữa Hồ Chí Minh và lực lượng Quốc dân Đảng Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam vào năm 1945 để chấp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản tại đó. Nhưng sau khi người Trung Quốc rút đi vào năm 1946, người Việt Nam bị bỏ mặc tự xoay sở.
Không được ai chính thức công nhận, VNDCCH tiếp tục kêu gọi sự giúp đỡ của Trung Hoa Dân Quốc và tìm kiếm các mối liên hệ quốc tế với Thái Lan lân cận cũng như với các thuộc địa cũ vốn đã có những động thái độc lập mạnh mẽ của riêng mình. Là chủ tịch nước mới và cũng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,9 có vẻ hợp lý khi cho rằng Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông nghĩ rằng việc xuất bản một cuốn sách như cuốn sách đang được xem xét ở đây sẽ giúp làm cho chính nghĩa của họ được biết đến ở thế giới bên ngoài và đưa VNDCCH lên bản đồ chính trị.
Một bằng chứng khác cho điều này được tìm thấy trong ấn bản Trung Quốc của Những Mẩu Chuyện có đề cập đến Nguyễn Ái Quốc, tên mà ông đã sử dụng khi ở Pháp, là tên thật của Hồ Chí Minh (Trần Dân Tiên 1949, 4, 36). Trong chính câu cuối cùng của Những Mẩu Chuyện tại Trung Quốc, được thể hiện như tái bút, Trần Dân Tiên đã đưa ra một nhận xét rất cảm động liên quan đến Trung Quốc:
“Người sẽ luôn giữ tên của mình là Hồ Chí Minh [mà người đã sử dụng khi còn ở Trung Quốc] để thể hiện sự trân trọng của mình với Trung Quốc” (191).
Đằng sau sự thể hiện lòng trung thành này có lẽ là lời kêu gọi của Hồ Chí Minh về sự trợ giúp của Trung Quốc. Nhận xét này không xuất hiện trong bất kỳ ấn bản nào khác dựa trên các ấn bản Việt mà tôi đã tham khảo.
Trong khi lý do của cuốn sách có vẻ rõ ràng, quyền tác giả lại bí ẩn hơn. Thông tin nhận dạng duy nhất của tác giả là tên của ông, Trần Dân Tiên, được in trên bìa của tất cả các ấn bản Những Mẩu Chuyện mà tôi có thể tìm thấy, với một ngoại lệ duy nhất mà tôi thảo luận dưới đây.
Có vẻ như không có một người thực sự liên quan đến cái tên này. Những Mẩu Chuyện là tác phẩm duy nhất được biết đến có ghi tên Trần Dân Tiên. Nhiều học giả Việt Nam và phương Tây đồng ý rằng người thực sự sở hữu cái tên này chính là Hồ Chí Minh (Brocheux 2007, 209n14; Duiker 2000, 579; Hà Minh Đức 1985, 132; Nguyễn ThếˆÁnh 1990, 12n1, 34; Quinn-Judge 2002, 5).
Không phải tất cả mọi người đều đồng ý với việc xác định Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Nguyễn Khôi, một nhà văn và nguyên Phó chủ tịch Văn phòng Quốc hội, người từng làm việc với các nhà lãnh đạo cấp cao của cộng sản, đã đưa ra một lập luận chống lại việc đánh đồng Hồ Chí Minh và Trần Dân Tiên, theo một trang web có phỏng vấn ông (Nguyễn Khôi 2013). Nguyễn Khôi lý luận rằng: “Hồ Chí Minh sẽ không có thời gian để viết tiểu sử của mình giữa lúc đang có những việc cấp bách mà ông phải chịu trách nhiệm sau Cách mạng Tháng Tám và trong Kháng chiến chống Pháp.” Hơn nữa, Nguyễn Khôi cho rằng là một người khiêm tốn, Hồ Chí Minh sẽ không viết về mình.
Theo Nguyễn Khôi, cần phải làm cho Hồ Chí Minh được thế giới biết đến trong những năm 1945–46, vì vậy Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Trung ương Đảng và Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, đã bố trí để viết một cuốn sách về chủ tịch. Họ đã giao cho trợ lý của Hồ Chí Minh là Vũ Đình Huỳnh viết. Sau khi hoàn thành, Trần Huy Liệu đã chỉnh sửa và bổ sung một số chi tiết, sau đó giao cho Hoàng Quốc Việt và Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng lúc bấy giờ. Nhóm nghiên cứu đã chọn bút danh Trần Dân Tiên, theo Nguyễn Khôi, có nghĩa là “công dân đầu tiên của dòng họ Trần của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.” Ông kết nối lựa chọn này với tổ tiên chung của một số thành viên trong gia tộc Trần, bao gồm cả Trường Chinh, thuộc dòng dõi Trần Hưng Đạo, vị tướng Việt Nam đã thành công đẩy lùi các cuộc xâm lược của giặc Nguyên vào thế kỷ thứ mười ba. Theo ý kiến của Nguyễn Khôi, tác phẩm của Trần Dân Tiên là một cuốn sách mô tả chân thực cuộc đời của Hồ Chí Minh (Nguyễn Khôi 2013).10
Để góp phần vào cuộc tranh luận này, tôi đề nghị xem qua Tiểu sử Hồ Chí Minh, Tiểu sử Hồ Chủ tịch (Tiểu sử Hồ Chủ tịch) của Trần Ngọc Danh, xuất bản tại Paris năm 1949 và được một số nhà nghiên cứu đề cập đến, nhưng không bao giờ được họ thảo luận (Trần Ngọc Danh, 1949). Rõ ràng tác phẩm cũng đã được xuất bản bằng tiếng Pháp với tên Histoire du Président Ho (Lịch sử Hồ Chủ tịch), đây có thể cũng là một bản dịch đảm bảo thuật ngữ tiểu sử tương đương với thuật ngữ biography trong tiếng Anh. Jean Sainteny (1970, 27 tuổi) đề cập đến nó trong cuốn sách của mình.
Trần Ngọc Danh và Tác quyền
Điểm hấp dẫn nhất trong ấn phẩm của Trần Ngọc Danh chưa bao giờ được hé lộ hoặc tối thiểu là được đưa ra ánh sáng: Những Mẩu Chuyện của Trần Dân Tiên và Tiểu sử của Trần Ngọc Danh không thể nhầm lẫn được, chính xác là đến từ cùng một cuốn sách.
Bản tiếng Việt của Trần Dân Tiên năm 1955 và Bản tiểu sử của Trần Ngọc Danh năm 1949 không giống nhau về mặt nguyên văn nhưng chúng trùng hợp ở từng câu như hai bản dịch độc lập của cùng một văn bản, cho thấy cả hai đều được dịch từ bản thảo gốc trong Tiếng Pháp và ấn bản ghi tên Trần Ngọc Danh không có ở Việt Nam vào những năm 1950 hoặc đã bị vứt bỏ.
Ấn bản tiểu sử do Trần Ngọc Danh viết bao gồm lời tựa của Trần Ngọc Danh. Lời tựa này là một bài văn tế nhị về Hồ Chí Minh để giải thích sự cần thiết của việc sùng bái ông. Công nhận rằng người dân được nghe tên Hồ Chí Minh lần đầu tiên vào ngày Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam, lời tựa khẳng định rằng từ ngày đó “cái tên Hồ Chí Minh tuyệt đối không thể tách rời với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.… Giờ đây Việt Nam tôn sùng [tôn giáo] Hồ Chí Minh, vì Hồ Chí Minh, cả về tinh thần và thể chất, là người con yêu quý của dân tộc Việt Nam…. Sự tôn thờ [tôn sùng] này không phải là điều gì quá đáng, bởi vì trong mỗi giai đoạn lịch sử, một quốc gia sẽ sản sinh ra một nhà lãnh đạo đáp ứng nhu cầu của tình hình hiện nay” (Trần Ngọc Danh 1949, 5).
Nhắc đến Hồ Chí Minh là người con yêu quý của dân tộc Việt Nam xuất hiện hai lần ở lời tựa và sau đó lại xuất hiện trong văn bản của cả Tiểu sử và Những Mẩu Chuyện. Lời tựa xác định Hồ Chí Minh là “lẽ sống và vinh quang của dân tộc Việt Nam… Quần chúng Việt Nam tin rằng đến thời điểm hiện tại, Hồ Chí Minh là người duy nhất xứng đáng lãnh đạo dân tộc.… Sự sùng bái và thờ phụng là một vấn đề lịch sử.… Sự sùng bái Hồ Chí Minh phải được thể hiện trong những việc làm hàng ngày” (6–7). Lời nói đầu này phản ánh bản chất của Những Mẩu Chuyện.
Trần Dân Tiên và Trần Ngọc Danh có phải là cùng một người, hay cuốn sách của Trần Ngọc Danh được xuất bản dưới tên Trần Dân Tiên? Tuy thế, chúng ta không thể loại trừ khả năng này, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, Tác phẩm của Trần Ngọc Danh được coi là của chính Hồ Chí Minh.
Không giống như tên của Trần Dân Tiên là bút hiệu, Trần Ngọc Danh là tên thật của một người có thật; ông là em trai của Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương, Trần Phú, người bị Pháp xử tử năm 1931. Trần Ngọc Danh là một trong những người tham gia phong trào cộng sản ngay từ đầu. Năm 1929, ông bắt đầu một khóa học ở Mátxcơva với bút danh Blokov, và thậm chí ông còn trở thành thành viên của Tổ chức Thanh niên Cộng sản Liên Xô Komsomol (Selivanov 2014, 34 tuổi, trích dẫn từ Cơ quan Lưu trữ Nhà nước Nga về Lịch sử Chính trị Xã hội, trang 495, sđd. 201, tập 10; hiếu 82, tập 2, tập 1157, 6).
Không hoàn thành chương trình học ở Liên Xô, năm 1931 Trần Ngọc Danh sang Trung Quốc, nơi ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1932, ông bị Pháp bắt tại đó và bị giam trên đảo Poulo Condore (Côn Đảo). Ông chỉ được trả tự do vào năm 1945 sau Cách mạng Tháng Tám. Trần Ngọc Danh trở thành kẻ gièm pha về Hồ Chí Minh với Stalin. Bị loại khỏi cương vị lãnh đạo ở miền Nam, ông được cử sang Paris năm 1946 để làm trưởng phái đoàn VNDCCH.
Tại Paris, ông đã viết các tài liệu quảng cáo và các bài báo quảng bá nêu bật chính nghĩa của VNDCCH mà không tiết lộ quan điểm cá nhân của ông về Hồ Chí Minh. Ông có vẻ trở nên rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt Nam, bởi vì khi cảnh sát Pháp bắt ông vào tháng Giêng năm 1948 vì “hành vi chống lại sự toàn vẹn của lãnh thổ Pháp,” công nhân Việt Nam đã biểu tình trên đường phố. Có thông tin cho rằng ba mươi ba công dân Việt Nam từ một trại có 2.000 công nhân sống đã bị bắt ở Marseilles (Daily News 1948, 3; Kalgoorlie Miner Năm 1948, 1).
Sau đó, Trần Ngọc Danh được trả tự do. Ông chạy trốn từ Paris đến Praha vào tháng 8 năm 1949; từ đó, vào tháng 12 năm 1949 và tháng 1 năm 1950, ông gửi thư cho Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ trích sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1950, ông qua đời ngay sau đó (de Tréglodé 2000; Goscha 2003, 2006; Quinn-Judge 2002, 339).
Những lá thư của Trần Ngọc Danh gửi Stalin tố cáo Hồ Chí Minh được gửi từ Praha ngay trước chuyến thăm Liên Xô của Mao và Hồ Chí Minh vào đầu năm 1950. Ông đã buộc tội Hồ Chí Minh về nhiều điểm, nhưng không chỉ giới hạn ở Hồ Chí Minh thiếu tinh thần quốc tế, thiếu kiến thức về chủ nghĩa Mác-Lênin và sai lệch so với thực tế. Trần Ngọc Danh gọi Hồ Chí Minh là Tito mới, gợi lên mối nguy hiểm mà người Liên Xô nhìn thấy ở nhà lãnh đạo Nam Tư không mấy tuân thủ, người đã xích mích với Stalin vào năm 1948.
Những bức thư dường như được viết để tỏ lòng thương tiếc của Trần Ngọc Danh đối với các nhà lãnh đạo Liên Xô và để lật đổ Hồ Chí Minh. Nhưng điều thú vị đối với chủ đề của chúng tôi là Trần Ngọc Danh đã cáo buộc Hồ Chí Minh là coi thường các nhà lãnh đạo một cách “mù quáng” (Huỳnh Kim Khánh 1982, 255n51; Quinn-Judge 2002, 339).
Để hỗ trợ cho lập luận của mình, Trần Ngọc Danh trích dẫn những đoạn văn cho thấy sự tôn sùng Hồ Chí Minh. Một số trong số đó tôi đã trích dẫn khi thảo luận về lời tựa của Tiểu sử do Trần Ngọc Danh viết; những người khác xếp Hồ Chí Minh vào hàng ngũ những kẻ đào mỏ, bao gồm cả những người có vẻ xa vời đối với thế giới cộng sản: “như những nhân vật lịch sử vĩ đại, các hoàng đế vĩ đại của Trung Quốc, Chúa Giê-su, Tôn Trung Sơn, Lê-nin, và Mahatma Gandhi, Chủ tịch Hồ là một người đơn giản, thẳng thắn và trung thành” (Selivanov 2014, 245).
Trần Ngọc Danh trình bày đây là bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh có tư tưởng lệch lạc và tự sùng bái mình. Ông tuyên bố rằng những đoạn văn này đến từ cuốn Tiểu Sử hay Những Mẩu Chuyện Về Cuộc Đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, thường được gán cho Trần Dân Tiên và đồng thời gán với Trần Ngọc Danh.
Thứ nhất, vào thời điểm đó, đây là nguồn thông tin duy nhất được lưu hành rộng rãi về cuộc đời của Hồ Chí Minh, bất kể đó là tiểu sử hay tự truyện. Thứ hai, những đoạn văn này thực sự tương ứng với những đoạn trong Những Mẩu Chuyện được xuất bản vào thời điểm đó, những đoạn có thể có trong nguyên bản tiếng Pháp, và chắc chắn là trong Tiểu sử và lời tựa của nó là do Trần Ngọc Danh viết. Hơn nữa, chúng cũng xuất hiện trong phiên bản Tiếng Trung của Những Mẩu Chuyện (Trần Dân Tiên 1949), trong đó phân tích ngôn ngữ cho thấy nó tương tự với ấn bản của Trần Ngọc Danh, đã được dịch từ tiếng Pháp.
Việc ghi nhận quyền tác giả của Trần Ngọc Danh trong ấn bản tiếng Việt tại Pháp có thể được giải thích bởi sự nổi tiếng của ông đối với kiều bào Việt Nam, đã được minh chứng bằng các cuộc biểu tình phản đối bắt giữ ông. Vào thời điểm đó, cộng đồng người Việt Nam tại Pháp có khoảng hàng chục nghìn người và chính phủ Hồ Chí Minh đã cố gắng tiếp cận họ (Blanc 2005; Daum 2009; Rettig 2012). Tên của Trần Ngọc Danh đã được nhiều người Việt Nam tại Pháp biết đến và theo đó nó sẽ “hợp pháp hóa” và “ủy quyền” Những Mẩu Chuyện/Tiểu Sử và nâng cao địa vị của vị lãnh tụ mới nuuwocs Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh, trong mắt cộng đồng người Việt hải ngoại tại Pháp.
Chú thích
2. Tác phẩm Handache Hồ Chi Minh: l’homme et son message (Tạm dịch: Nỗi đau Hồ Chí Minh: con người và thông điệp của ông ấy) là một tập hợp các bài viết, bài báo về Hồ Chí Minh, và các bài phỏng vấn những người biết ông.
3. Cuốn sách này là bản mở rộng của cuốn sách về Hồ Chí Minh của Brocheux’s (2000). Cuốn sách của Brocheux được Claire Duiker dịch sang tiếng Anh (Brocheux 2007). Tôi sẽ sử dụng bản dịch của bà để tham chiếu tới tác phẩm của Brocheux. Các bản nguyên văn và được dịch thì giống hệt nhau.
4. Trong bản dịch của Duiker, phần tiêu đề phản ánh về sự chuyển mình của Hồ Chí Minh từ một nhà cách mạng thành một biểu tượng đã bị lãng quên, và bản dịch tiếng Anh thích hợp hơn được gọi là Ho Chi Minh: A Biography (Brocheux 2007).
5. Chủ tịch (zhuxi 主席) có nghĩa là “chủ tịch.” Cả Mao và Hồ Chí Minh đều được gọi bằng thuật ngữ này. Tuy nhiên, tước hiệu của Mao, mà ông nhận được trước Hồ Chí Minh, thường được dịch là “Chairman-Chủ tịch”, trong khi Hồ Chí Minh được dịch là “President-Chủ tịch.”
6. NHỮNG MẨU CHUYỆN được xuất bản vào năm 1955, và trong hai thập kỷ sau đó đã được tái bản bởi Văn nghệ (Văn học nghệ thuật), Hội nhà văn (Hội nhà văn), Văn học (Văn học) và Sự thật (Sự thật) vào gần như mỗi năm. Sau năm 1975, các nhà xuất bản khác đã tham gia xuất bản NHỮNG MẨU CHUYỆN. Tôi mượn thuật ngữ “NHỮNG MẨU CHUYỆN-vignettes” từ mô tả của Sophie Quinn-Judge (2002, 5) về tác phẩm.
7. Ấn bản tiếng Pháp năm 1972 chỉ cung cấp một phần của Vignettes trong một tập bao gồm các hồi ký khác về Hồ Chí Minh. Ấn bản này được tái bản bởi cùng một nhà xuất bản năm 1990 với tựa đề L’itinéraire de Ho Chi Minh jusqu’à 1945 (Con đường Hồ Chí Minh đến năm 1945). Ngoài những ấn bản này, tôi đã tham khảo hơn một chục ấn bản tiếng Việt xuất hiện sau năm 1955 và một ấn bản tiếng Pháp khác xuất hiện năm 1990. Tôi không tham khảo bản dịch tiếng Lào năm 2003, vì nó đến sau thời gian tôi khảo sát.
8. Theo Quinn-Judge (2002, 2), nó được xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1948. Brocheux (2007, 243) nói rằng nó đã được xuất bản ở Hà Nội với tựa đề tiếng Việt là Những câu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nó cũng được đề cập trong Huy Đức (2012, 1: 259n408). Nhưng không ai trong số họ nhìn thấy nó, theo như họ nói với tôi.
9. Hồ Chí Minh là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, cho đến tháng 3 năm 1947, khi Hoàng Minh Giám lên kế vị, ngoại trừ một số tuần từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1946, khi Nguyễn Tường Tam, một nhà văn và một thành viên của Đại Việt Quốc Dân Đảng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
10. Tôi chưa xác minh được Trường Chinh, tên thật là Đặng Xuân Khu, có phải là người họ Trần hay không.
Tư liệu tham khảo
ARCHERS, JULES. 1971. Hồ Chí Minh: Legend of Hanoi. New York: Crowell-Collier Press.
BLANC, MARIE-EVE. 2005. “Vietnamese in France.” In Encyclopedia of Diasporas: Immigrant and Refugee Cultures Around the World, eds. Carol R. Ember, Melvin Ember, and Ian A. Skoggard, 1158–68. New York: Springer.
BROCHEUX, PIERRE. 2000. Ho Chi Minh. Paris: Presses de Sciences Po.
——. 2003. Hô Chi Minh: Du révolutionnaire à l’icône [Ho Chi Minh: From revolutionary to icon]. Paris: Éditions payots.
——. 2007. Ho Chi Minh: A Biography. Translated by Claire Duiker. Cambridge: Cambridge University Press.
BROOKS, JEFFREY. 2000. Thank You, Comrade Stalin! Soviet Public Culture from Revolution to Cold War. Princeton, N.J.: Princeton University Press.
——. 2003. “Stalin’s Politics of Obligation.” Totalitarian Movements and Political Religions 4(1):47–68.
BÙI TÍN. 1995. Following Ho Chi Minh: The Memoirs of a North Vietnamese Colonel.
Translated by Judy Stowe and Do Van. Honolulu: University of Hawaii Press.
BURCHETT, WILFRED. 1972. Ho Chi Minh, an Appreciation. New York: Wilfred Burchett Fund in association with the Guardian.
CHÍNH LUẬN [POLITICAL DISCUSSION]. 1965. “Ngày 19-5-65, miền Bắc cộng sản đã dàn cảnh sinh nhật họ Hồ để che dấu sự xâu xé nội bộ” [May 19, 1965, communist north stages Hồ Chí Minh’s birthday to conceal internal rupture]. May 20 or 21
(dates on the microfilm are cut off), 1, 3.
COSTELLO, FRANCIS J. 1995. Enduring the Most: The Life and Death of Terence MacSwiney. Dingle, Kerry, Ireland: Brandon.
CỨU QUỐC [SALVATION OF THE COUNTRY]. 1946a. “Điện văn mừng Hồ Chủ-tịch của vệ quốc đoàn Hà-nội” [Telegram congratulating President Ho from the National Army]. 244.
May 20.
——. 1946b. “Nhân ngày sinh-nhật Hồ Chủ-tịch hầu khắp đại biểu các giới và toàn thể
Thiếu-niên, nhi-đồng của Hà-nội đã đến mừng thọ Hồ Chủ-tịch” [On the occasion of President Hồ’s birthday representatives of almost all groups and of all youth and children came to wish longevity to President Hồ]. 244. May 20.
DAILY NEWS. 1948. “Vietnam Workers Arrested in Marseilles.” February 4.
DAUM, PIERRE. 2009. Immigrés de force: Les travailleurs Indochinois en France (1939–
1952) [Force of immigrants: Indochinese workers in France (1939–1952)]. Paris: Actes sud.
DE TRÉGLODÉ, BENOÎT. 2000. “Les relations diplomatiques Hanoï-Moscou-Pékin à travers les documents (1950–1954)” [The diplomatic relations of Hanoi-Moscow-Beijing through documents (1950–1954)]. Revue Historique des Armées 4:55–62.
DUIKER, WILLIAM. 2000. Ho Chi Minh. New York: Hyperion.
FENN, CHARLES. 1973. Ho Chi Minh: A Biographical Introduction. New York: Scribner.
FIGUÈRES, LEO, and CHARLES FOURNIAU, eds. 1970. Ho Chi Minh, notre camarade [Ho Chi Minh, our comrade]. Paris: Éditions sociales.
GASPARD, THU TRANG. 1992. Ho Chi Minh à Paris, 1917–1923 [Ho Chi Minh in Paris, 1917–1923]. Paris: L’Harmattan.
GENTILE, EMILIO. 2006. Politics as Religion. Translated by George Staunton. Princeton, N.J.: Princeton University Press.
GILL, GRAEME. 1980. “The Soviet Leader Cult: Reflections of the Structure of Leadership in the Soviet Union.” British Journal of Political Science 10:167–86.
GOSCHA, CHRISTOPHER. 2003. “La survie diplomatique de la République Démocratique du Vietnam: Le doute Soviétique effacé par la confiance Chinoise (1945–1950)?”
[The diplomatic survival of the Democratic Republic of Vietnam: Soviet doubt erased by Chinese trust (1945–1950)?]. Approches Asie 18:19–52.
——. 2006. “Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950).” Journal of Vietnamese Studies 1(1–2):59–103.
GREGOR, A. JAMES. 2012. Totalitarianism and Political Religion: An Intellectual History.
Stanford, Calif.: Stanford University Press.
HÀ MINH ĐỨC. 1985. Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh [Literary works of Ho Chí Minh]. Hanoi: Nxb khoa học xã hội.
HÀ VĂN TẤN. 1993. Chùa Vietnam Buddhist Temples. Hanoi: Nhà xuất bản khoa học xã hội.
HALBERSTAM, DAVID. 1971. Ho. New York: Random House.
HANDACHE, GILBERT, ed. 1970. Ho Chi Minh: L’homme et son message [Ho Chi Minh: The man and his message]. Paris: Le nouveau planète.
HANNIGAN, DAVE. 2010. Terence MacSwiney: The Hunger Strike that Rocked an Empire.
Dublin: O’Brien Press.
HÉMERY, DANIEL. 1990. Ho Chi Minh: De l’Indochine au Vietnam [Ho Chi Minh: Indochina in Vietnam]. Paris: Gallimard.
——. 1992. “Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911”
[Youth of a colonized, genesis of an exile: Ho Chi Minh until 1911]. Approches-Asie 11:83–155.
HỒ CHÍ MINH. 1978. Về vai trò và nhiệm vụ của thanh niên [On the role and the tasks of youth]. Hanoi: Nxb sự thật.
——. 1989. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [Testaments of President Hồ Chí Minh].
Hanoi: Ban Chấp hành Trung ương, Đảng cộng sản Việt Nam.
[HỒ CHÍ MINH: NO. 1 TRAITOR OF HIS COUNTRY] 1965.
Saigon: Nha tác động tâm lý, Bộ Thông tin tâm lý chiến ban hành.
HO TAI, HUE-TAM. 1995. “Monumental Ambiguity.” In Essays into Vietnamese Pasts, eds.
Keith Weller Taylor and John K. Whitmore, 272–88. Ithaca, N.Y.: Cornell Southeast Asia Program Publications.
HOÀNG KIM ĐÁNG. 2007. “Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn” [Uncle Hồ conducts the solid-arity song]. Nhân dân, May 15. http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/di-san/item/
3915902-.html (accessed February 15, 2016).
HOÀNG NGUYÊN. 1991. “Tôi tham gia đoàn cán bộ đối ngoại đầu tiên đi Đông Nam Á” [I participated in the first delegation of foreign service cadres to go to Southeast Asia].
Nghiên cứu Đông Nam 1:51–56.
HOBSBAWM, ERIC. 1983. “Introduction: Inventing Traditions.” In The Invention of Tradition, eds. Eric Hobsbawm and Terence Ranger, 1–15. Cambridge: Cambridge University Press.
L’HUMANITÉ. 1947. May 21.
HUY ĐỨC. 2012. Bên thắng cuộc [The winning side]. 2 vols. Los Angeles, Calif.: OsinBook.
HUỲNH KIM KHÁNH. 1982. Vietnamese Communism, 1925–1945. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press.
JAPAN AND AMERICA. 1902. “Tencho-Setsu: The Emperor’s Birthday.” 2(8):25–26.
KALGOORLIE MINER. 1948. “Delegate Arrested in Paris.” February 3.
KEENE, DONALD. 2002. Emperor of Japan: Meiji and His World, 1852–1912. New York: Columbia University Press.
KIRKUS REVIEW. 1971. “Ho.” March 1. https://www.kirkusreviews.com/book-reviews/
david-halberstam/ho/ (accessed July 28, 2014).
KOBELEV, EVGENIY V. 1979. Ho Shi Min [Ho Chi Minh]. Moscow: Molodaya gvardia.
KUN, MIKLÓS. 2003. Stalin: An Unknown Portrait. Budapest: Central European University Press.
LACOUTURE, JEAN. 1967. Hô Chi Minh. Paris: Éditions du seuil.
——. 1968. Hô Chi Minh: A Political Biography. Translated by Peter Wiles. New York: Random House.
LAN, T. 1961. Vừa đi đường vừa kể chuyện [Stories told on the trail]. Nhân dân (2602–10, 2685–86, 2688, 2691–94).
LEESE, DANIEL. 2007. “The Mao Cult as Communicative Space.” Totalitarian Movements and Political Religions 8(3–4):623–39.
THE LIFE OF STALIN: A SYMPOSIUM. 1930. New York: Workers’ Library Publishers.
LYOTARD, JEAN-FRANÇOIS. 1984. The Postmodern Condition: A Report on Knowledge.
Translated by Geoff Bennington and Brian Massumi. Minneapolis: University of Minnesota Press.
MAROUDA, MARINA. 2013. “The Unending Death of an Immortal: The State Commemoration of Hồ Chí Minh in Contemporary Việt Nam.” South East Asia Research 21(2): 303–21.
MARR, DAVID G. 1995. Vietnam 1945: The Quest for Power. Berkeley: University of California Press.
——. 2013. Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946). Berkeley: University of California Press.
MITTER, RANA. 2008. “Maoism in the Cultural Revolution: A Political Religion?” In The Sacred in the Twentieth-Century Politics: Essays in Honour of Professor Stanley G. Payne, eds. Roger Griffin, Robert Mallett, and John Tortorice, 143–65. Basing-stoke, England: Palgrave Macmillan.
MOHAN, S. DAS. 1951. Ho Chi Minh: Nationalist or Soviet Agent? Bombay: Democratic Research Service.
MONEFIORE, SIMON SEBAG. 2004. Stalin: The Court of the Red Tsar. New York: Vintage.
NEW YORK TIMES. 1964. “Planes Scatter Nehru Ashes.” June 13.
NGÔ SĨ LIÊN. 1993. Đại Việt sử ký toàn thư [Complete historical annals of Great Việt].
Hanoi: Nxb Khoa học xã hội.
NGUYỄN KHÔI. 2013. “Trần Dân Tiên thực là ai?” [Who is the real Trần Dân Tiên?]. September 26. http://nguyentrongtao.info/2013/09/26/tran-dan-tien-thuc-la-ai/ (accessed February 20, 2016).
NGUYEN, LIEN-HANG. 2012. Hanoi’s War: An International History of War for Peace in Vietnam. Chapel Hill: University of North Carolina Press.
NGUYỄN THẾ ANH. 1983. “Du rêve mandarinal au chemin de la révolution: Hồ Chi Minh et l’École Coloniale” [From mandarinal dream to the path of revolution: Ho Chi Minh and the Colonial School]. Ðường Mới 1:8–25.
——. 1990. “L’intinéraire politique de Hô Chi Minh” [The political path of Ho Chi Minh]. In Ho Chi Minh: L’homme et son heritage [Ho Chi Minh: The man and his heritage], ed. Marcel Bénichou, 12–38. Paris: Ðường mới.
NGUYEN VAN CUONG. 2013. “Mavzolei Ho Shi Mina – Tvorenie Vietnamo-Rossiyskoi druzhby” [Ho Chi Minh’s mausoleum – Creation of the Vietnamese-Russian friendship]. In Rossiysko-Vietnamskie otnoshenia: Sovremennost’ i istoria
[Russian-Vietnamese relations: Modernity and history], eds. E. V. Kobelev and V. M.
Mazyrin, 396–406. Moscow: Institute of Far Eastern Studies.
NHÂN DÂN [PEOPLE]. 1955. “Điện mừng sinh nhật Hồ Chủ-tịch” [Congratulatory telegrams on the occasion of President Ho’s birthday]. 448. May 25.
O’CALLAGHAN, ANTÓIN. 2000. The Lord Mayors of Cork: 1900 to 2000. Cork, Ireland: Inversnaid Publications.
PELLEY, PATRICIA M. 2000. Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past.
Durham, N.C.: Duke University Press.
PRAVDA [TRUTH]. 1923. April 22.
——. 1926. April 22.
——. 1927. April 22.
——. 1928. April 22.
——. 1929. December 21.
——. 1935. April 22.
——. 1939a. December 21.
——. 1939b. December 22.
——. 1940. April 22.
——. 1941. December 18.
——. 1942. April 22.
——. 1944. April 22.
——. 1945. April 22.
——. 1946. April 22.
——. 1947. April 22.
QUINN-JUDGE, SOPHIE. 1993. “Hô Chi Minh: New Perspectives from the Comintern Files.” Việt Nam Forum 14:61–81.
——. 2002. Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919–1941. Berkeley: University of California Press.
RADZINSKY, EDVARD. 1997. Stalin. Moscow: Vagrius.
RAGEAU, CHRISTIANE PASQUEL. 1970. Ho Chi Minh. Paris: Éditions universitaires.
RAMESH, RANDEEP. 2008. “60 Years On, Gandhi’s Ashes Laid to Rest.” Guardian, January 31. http://www.theguardian.com/world/2008/jan/31/india.international (accessed June 29, 2015).
RENAUD, JEAN. 1949. Ho-Chi-Minh, Abd-El-Krim et cie [Ho Chi Minh, Abd El Krim and company]. Paris: G. Boussac.
RETTIG, TOBIAS. 2012. “From Subaltern to Free Worker: Exit, Voice, and Loyalty among Indochina’s Subaltern Imperial Labor Camp Diaspora in Metropolitan France, 1939–1944.” Journal of Vietnamese Studies 7(3):7–54.
ROUS, JEAN. 1947. Le conflit Franco-Vietnamien [The Franco-Vietnamese conflict]. Paris: Les documents populaires.
RUSSIAN STATE ARCHIVE OF SOCIAL AND POLITICAL HISTORY. 1950. “Pismo V. G. Grigoriana na imia I. V. Stalina po povodu 60-letia Ho Shi Mina” [Letter from V. G. Grigorian to I. V. Stalin regarding Hồ Chí Minh’s sixtieth birthday]. May 1. Ossobaya Papka
[Special dossier]. File 17, op. 163, d. 1549.
SAINTENY, JEAN. 1970. Face à Ho Chi Minh [Faced with Ho Chi Minh]. Paris: Édition seghers.
——. 1972. Ho Chi Minh and His Vietnam: A Personal Memoir. Translated by Herma Briffault. Chicago: Cowles Book Company.
SELIVANOV, IGOR N. 2014. Stalin, Ho Shi Min i “delo” Chan Ngok Dana: Fakty, hipotezy, arhivnye dokumenty [Stalin, Ho Chi Minh, and the “affair” of Tran Ngoc Danh: Facts, hypothesis, archival documents]. Kursk, Russia: Kursk State University.
STUHLMANN, MANFRED. 1960. Ho-chi-Minh: Ein leben für Vietnam [Ho Chi Minh: A life for Vietnam]. Berlin: Dietz verlag.
TAGLIAZUCCHI, PINO. 2004. Ho Chi Minh: Biografia politica (1890–1945) [Ho Chi Minh: Political biography (1890–1945)]. Torino, Italy: L’Harmattan Italia.
TRẦN DÂN TIÊN. 1949. Hu Zhiming zhuan 胡志明傳 [Stories about Hồ Chí Minh]. Translated by Zhang Nianshi 張念式 and Trương Niệm Thức. Shanghai: Bayue chubanshe.
——. 1955. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch [Vignettes of President Ho’s life and activities]. Hanoi: Nxb văn nghệ.
——. 1958a. Glimpses of the Life of Ho Chi Minh, President of the Democratic Republic of Vietnam. Hanoi: Foreign Languages Publishing House.
——. 1958b. Rasskazy o zhizni i deiatelnosti Prezidenta Kho Shi Mina [Stories about the life and activities of President Hồ Chí Minh]. Translated by V. I. Karpov. Moscow: Izdatelstvo inostrannoy literatury.
——. 1959. Nukilan dari kehidupan Ho Chi Minh, presiden Republik Demokrasi Vietnam [Vignettes from the life of Ho Chi Minh, president of the Democratic Republic of Vietnam]. Jakarta: Pembaruan Publishing House.
——. 1960. Anekdotoj pri la vivo de Prezidanto Ho Chi Minh [Stories of President Hồ
Chí Minh’s life]. Translated by Nguyen Minh Kinh. Hanoi: Fremdlingva Eldonejo Publications.
——. 1972. Avec l’Oncle Ho [With Uncle Ho]. Hanoi: Éditions en langues étrangères.
TRẦN ĐƯƠNG. 2014. “Tấn ảnh Bác Hồ bắt nhịp bài ca Kết đoàn” [Uncle Hồ’s picture of conducting the Solidarity Song]. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, http://www.
nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=4504:tm-nh-bac-
h-bt-nhp-bai-ca-kt-oan&catid=120:hc-tp-va-lam-theo-tm-gng-o-c-h-chi-minh&Itemid=
603 (accessed February 15, 2016).
TRẦN NGỌC DANH. 1949. Tiểu sử Hồ Chủ tịch [Biography of President Hồ]. Paris: Chi-hội Liên-Việt tại pháp. Archives Nationales d’Outre-Mer, Aix-en-Provence, fonds du Haut Commissariat de l’Indochine: SPCE, carton 370.
VƯƠNG LỘC and VƯƠNG KÍNH. 1965. Về quê Bác [Going to Uncle’s native place]. Hanoi: Nxb Kim Đồng.
——. 1970. Về quê Bác [Going to Uncle’s native place]. 2nd ed. Hanoi: Nxb Kim Đồng.
WORTHING, PETER. 2001. Occupation and Revolution: China and the Vietnamese August Revolution of 1945. Berkeley, Calif.: Institute of East Asian Studies.
Bạn có thể thích
Sách của con trai thời Pháp thuộc: một nghiên cứu trường hợp về kinh nghiệm đọc của Hữu Ngọc
PHỎNG VẤN TRẦN THANH HIỆP
Nền y học, y tế, vệ sinh ở Việt Nam tiền bán thế kỷ 20 (phần 2)
PHỎNG VẤN NGUYỄN PHƯƠNG MINH
Biển Đông thời viễn cổ (trước thế kỉ 10), phần 2
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần A)
Tư liệu lịch sử: Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ 1972
“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu – Điểm sách “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần B)
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần C)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ
-
Kinh tế - Chính trị1 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần A)
-
Tư liệu lịch sử3 năm trước
Tư liệu lịch sử: Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ 1972
-
Lịch sử Việt-Mỹ4 năm trước
“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu – Điểm sách “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”
-
Kinh tế - Chính trị1 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần B)
-
Kinh tế - Chính trị1 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần C)
-
Kinh tế - Chính trị4 năm trước
Vụ án Nhân văn Giai phẩm: Thụy An, một số phận bi thảm
-
Kinh tế - Chính trị5 năm trước
Tư liệu: Thư Trần Phú gửi Quốc tế cộng sản, phê phán Nguyễn Ái Quốc 17-4-1931
-
Giới thiệu4 năm trước
Nghiên cứu viên