Connect with us

Kinh tế - Chính trị

Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg Qua Lăng Kính Kế Sách Phát Triển Kinh Tế, Ngoại Thương VN, và Suy Tư Về Trách Nhiệm Của Việt Kiều (Kỳ 2)

Nguyễn Văn Chữ

Published on

Nguyễn Văn Chữ 

Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg Qua Lăng Kính Kế Sách Phát Triển Kinh Tế, Ngoại Thương VN, và Suy Tư Về Trách Nhiệm Của Việt Kiều (Kỳ 1, Kỳ 2)

5. Ước đoán chủ đích của Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg của chính quyền cộng sản Việt Nam và vài suy tư theo thiển ý về cộng đồng người Việt tại hải ngoại.

5.1. Ước đoán chủ đích của Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg của chính quyền cộng sản Việt Nam

Do được điều kiện hóa trong một văn hóa, môi trường kinh tế và kinh doanh của phần “theo định hướng của xã hội chủ nghĩa – bao gồm cả chính sách công hữu và đặt lãnh vực quốc doanh vào vai trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế” của chính sách “kinh tế thị trường” mà chính phủ VN theo đuổi trong nhiều thập niên qua, nên trong quá trình hội nhập hơn 30 năm qua, cấp lãnh đạo VN đã không thể mà cũng không cần kiến tạo “một xã hội công bằng, một nhà nước có trách nhiệm, và minh bạch”. Do đó, VN đã nhiều lần xin các đối tác ngoại thương công nhận nền kinh tế VN là nền kinh tế thị trường thực sự; nhưng cho đến ngày nay, mọi yêu cầu đều bị khước từ. 

Nếu mượn ngôn từ của Giáo Sư Lewis (1955) và qua các dữ kiện cũng như chi tiết do Klingler-Vidra và Wade trình bày trên thì đây là điều sai trái mà giới hữu trách trong chính phủ VN đã phạm đã và sẽ tiếp tục gây nguy hại nghiêm trọng cho nền kinh tế và đất nước. Trong khi đó, nếu theo ngôn từ thời thượng thì ngoài hai chiến thuật và chiến lược phát triển kinh tế hiện đại từ hai trường phái kinh tế Keynesian (hướng nội phát triển) và tân cổ điển (hướng ngoại phát triển), các viên chức VN qua hành động đã phát minh ra một chiến thuật và chiến lược phát triển kinh tế mà Giáo Sư Tiến sỹ Nguyen (Nguyen, Hiệp,  Lộc; 2021) gọi là chiến thuật và chiến lược phát triển kinh tế “hướng tôi, kê tính, và chọn lựa đối tác để phát triển”.  “Hướng tôi, kê tính, và chọn lựa đối tác để phát triển”, được hiểu là: “hướng tôi” là quan chức chỉ triển khai và thực thi các dự án mà họ có thể bòn rút để ăn chia; “kê tính” là cụm từ  mà ông đặt ra để nói lên hiện tượng cung cấp dịch vụ hay sản phẩm trị giá x đồng, làm hóa đơn (x+y) đồng, để có y đồng cho công tác bôi trơn và ăn chia; đồng thời, “chọn đối tác để phát triển” là chỉ hợp tác với bất cứ đối tác nào mà “họ” có thể hướng về mình và kê tính, bất kể sự tồn vong của đất nước hay số phận cũng như phúc lợi dân tộc. Hoạt động của công ty Việt Á là một trường hợp đơn cử.

Trở lại dữ liệu thống kê chọn lọc trong Bảng 1 trên đây, một vài thiển kiến của người viết,  giá trị nhập siêu từ Trung Quốc vào Việt Nam được báo cáo chính thức chỉ là -59.235,65 triệu Mỹ kim. Tuy nhiên, Việt Nam giáp giới với Trung Quốc và tham nhũng tại Việt Nam thì rất khủng khiếp; do đó, không phải không có cơ sở để phỏng đoán rằng số lượng sản phẩm của Trung Quốc được nhập lậu vào Việt Nam sẽ không nhỏ. Tất yếu là giá trị nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc sẽ vượt trội hơn -59.235,65 triệu Mỹ kim rất nhiều.

Như đã trình bày trên đây, tổng số giá trị của tài khoản vãng lai, tài khoản tư bản, tài khoản tài chính và khoản điều chỉnh do sai số là cán cân mậu dịch hay cán cân thanh khoản quốc tế giữa một nền kinh tế và tất cả các quốc gia cũng như lãnh thổ đối tác trên thế giới. Hai điểm quan trọng tiềm ẩn cần chỉ ra đây là: cán cân thanh khoản quốc tế bao gồm cả viện trợ từ các quốc gia hay lãnh thổ khác và kiều hối của một nền kinh tế, và giá trị của hai ngân khoản này được bút toán như là một số dương vào hạn mục đơn phương chuyển nhượng tài chính ròng.

Phân tích dữ liệu thống kê trong trong Bảng 1 (dòng 5-d) cho thấy cán cân thanh khoản quốc tế của Việt Nam trong năm 2023 thặng dư hay xuất siêu (bao gồm cả viện trợ của ngoại quốc và kiều hối: hai khoản thu này có thể xem là xuất cảng không vốn của VN) đến toàn thế giới chỉ vỏn vẹn 12 tỷ Mỹ kim. So sánh dữ liệu thống kê trong các dòng 1-c, 2-c, 3-c, 4-c, và 5-d dường như đề nghị rằng hạn mục đơn phương chuyển nhượng tài chính ròng của tài khoản vãng lai của VN khiếm hụt khá nghiêm trọng. Các khoản chi trả được bút toán trong hạn mục này thường bằng ngoại tệ và với số lượng lớn như: chương trình EB-5, chi phí của du sinh, mua quốc tịch của nhiều quốc gia, mua tài sản tại nước ngoài. Sự thật khó phản biện là các tác vụ này vượt rất  xa khả năng của công nhân hay người lao động VN. 

Trong khi đó, theo báo VietnamNet  (ngày 3 tháng 2, năm 2024), Việt Nam nhận 16 tỷ Mỹ kim kiều hối trong năm 2023. Tương quan với 438,20 tỷ Mỹ kim GDP của Việt Nam trong năm 2023, kiều hối bằng 3,65% và thặng dư ngoại thương chỉ 2,74%. Đây là chưa tính số ngoại tệ mà Việt kiều chi tiêu, biếu thân nhân, bạn bè, làm từ thiện khi thăm viếng Việt Nam và giá trị của sản phẩm xách tay (xa xỉ phẩm yêu chuộng của thành phần trưởng giả và quan chức Việt Nam). 

Trước khi ước đoán chủ đích của Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg, mà chính quyền và đảng đã huy động gần như toàn bộ các cơ quan của chính phủ để thực thi, một vài động tác thú vị  và cam kết vẫn chưa hoàn tất sau đây của Đảng Cộng Sản và chính quyền VN cần chỉ ra:

Vấn đề thú vị là Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết dự luật cho phép Việt kiều có quyền sở hữu bất động sản như người Việt trong nước, có hiệu lực vào đầu năm 2025. Dự luật này không ngoài mục đích giải cứu vấn đề đóng băng thị trường bất động sản do kết quả của các nhóm lợi ích lướt sóng và thổi giá trong thị trường này của nền kinh tế hoạt động theo quy trình của chiến lược phát triển theo thuyết kinh tế “hướng tôi, kê tính, và chọn lựa đối tác để phát triển”; bằng chứng là hơn 80 phần trăm tỷ phú Việt Nam, ngay cả ngài tỷ phú Phạm Nhật Vượng, làm giàu từ cấu kết với đảng viên quan chức để cướp đất của dân và tài sản quốc gia, cũng như các trò lừa bịp trong thị trường tài chính, để làm giàu.

Vấn đề chưa hoàn tất là VN đã cam kết hoàn tất sửa đổi luật lao động để cho người lao động thành lập nghiệp đoàn độc lập vào cuối năm 2023. Hơn nữa, các thị trường nhập cảng lớn từ Việt Nam đòi hỏi vấn đề liên quan đến thẩm định như quyền con người, môi trường, quy luật đánh bắt hải sản, thiết kế sinh thái, sản phẩm tái chế, ngành dệt may nói riêng và các ngành xuất khẩu nói chung, như đã cam kết trong các hiệp thương toàn diện. Cho đến hôm nay, nhiều nhà hoạt động trong lãnh vực này đã bị đàn áp và giam cầm, và  VN chỉ có Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN).  TLĐLĐVN là một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản Việt Nam thuộc Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, và người đứng đầu do đảng chỉ định và trả lương.  Hơn nữa, theo luật hiện hành của Việt Nam, một cuộc đình công hợp pháp phải thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất, phải tuân theo trình tự quy định trong bộ luật lao động, trong đó không được phép đình công về quyền; và thứ hai, phải do tổ chức công đoàn lãnh đạo. Và, cho đến ngày nay, không một cuộc đình công nào tại VN (hơn 7.000) hợp pháp vì không thể thỏa mãn ít nhất là một trong hai điều này.

Ngành may mặc của Việt Nam, dùng vải làm từ bông vải trồng tại Tân Cương, chiếm một tỷ trọng khá lớn trong xuất cảng; nhưng gần đây bị ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng bởi đạo luật ngăn chặn lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ, do TT Biden ký ngày 23/12/2021, cấm các đơn hàng sử dụng nguyên liệu từ nơi đó. Trong khi, do không minh bạch trong quy luật đánh bắt/nuôi thủy sản, nhiều lô hàng xuất cảng của ngành này này đã bị khước từ. Thay vì nói lên sự thật đề khắc phục, chính quyền và báo chí lề đảng cố ru ngủ quần chúng rằng sự khó khăn kinh tế Việt Nam là do suy thoái kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng của hậu Covid-19, và chiến tranh Ukraine.  

 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây tổn thương và thiệt hại nghiêm trọng cho người dân; tuy nhiên, để bảo tồn đảng, họ chỉ cố biện minh, giải thích, nhận lỗi, hứa hẹn sửa đổi đối với các thiệt hại nghiêm trọng nào có thể đe dọa đến sự tồn vong của đảng mà thôi. Tiêu biểu cho các tội tày trời này phải kể là cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc, áp đặt chủ thuyết kinh tế trung ương hoạch định trên miền Bắc và toàn Việt Nam sau năm 1975 đưa đến vấn nạn và nhiêu khê trong thập niên 1980. Mới nhất là chương trình đổi mới của VN năm 1986 chuyển đổi từ mô hình “Kinh tế trung ương hoạch định” sang mô hình “Kinh tế Thị trường theo Định hướng Xã hội Chủ nghĩa” mà thành quả được các chỉ số thống kê trích dẫn trong Bảng 1 trên đây trực tiếp và gián tiếp chỉ ra. 

Về mặt văn hóa -cách hành xử- người viết mãi tin rằng người Việt luôn trọng nghĩa tình và anh dũng, “chị ngã em nâng” trong gia đình, “lá lành đùm lá rách” ngay cả “áo rách đùm áo tả tơi” ngoài xã hội, và bao đấng anh hùng đã hy sinh tất cả cho đại nghĩa-các anh hùng Yên Bái, là một tiêu biểu. Trong khi đó, cũng không thiếu người thân vì tâm lý chỉ vì không chịu thua kém chòm xóm (keeping up with the Joneses) cho nên kêu gọi, thuyết phục người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp.

Khi khối cộng sản thế giới lung lay trước khi Liên Bang Soviet và Đông Âu sụp đổ, dân tộc Việt Nam đứng trên bờ vực đói  nghèo thăm thẳm.  Những người Việt hải ngoại hôm nay được vinh danh là “khúc ruột nghìn dặm” đã từng được đảng và nhà nước thân mến mệnh danh là “thành phần du đãng và đĩ điếm chạy theo đế quốc Mỹ” đã gửi về VN hàng tỷ Mỹ kim mỗi năm để nâng, đùm người thân tại quê hương mà mình đã đào thoát mà một số ra đi bất kể mạng sống

Hai tỷ Mỹ kim do thành phần “bất hảo” này gửi về đã làm giảm đi cơn đói trong thời gian khốn cùng tại VN và cứu chế độ năm 1987. Cựu quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN trở lại, hầu hết với gia đình, để thăm lại các vùng mà họ đã lưu đóng cùng với Việt kiều du lịch thăm quê hương không những đã mang vào VN một luồng ngoại tệ to lớn mà còn giúp dưỡng nuôi con bò sữa từ lúc sơ sinh: kỹ nghệ du lịch VN. Đây là hai trong các nguyên nhân, nếu không là hai nguyên nhân chính, giúp cho sự tồn tại của chế độ, khi Đông Âu và Nga tan rã. 

Dù đúng hay sai, các động tác trên đây của nền kinh tế đều nằm trong quá trình phát triển kinh tế  dẻo-cứng. Và,  sau gần 40 năm, nền kinh tế Việt Nam đã sang trạng thái cứng (của quá trình dẻo-cứng), nên sẽ rất khó khăn và tốn kém để hiệu chỉnh. Hơn nữa,  trên bình diện quốc tế, vì Đảng Cộng Sản và quan chức Việt Nam không luôn trung thực nên đang “thưởng thức” chân lý của câu nói của Tổng Thống thứ 16 của Mỹ, ông Abraham Lincoln, rằng: “Bạn có thể đánh lừa một số người mọi lúc, và tất cả mọi người một số lúc, nhưng bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người mọi lúc.” 

Do văn hóa hướng tôi, kê tính, và chọn lựa đối tác để phát triển, nguồn nhân lực không được đào tạo thích nghi cho nhu cầu cho hoạt động kinh tế 5-G của thế giới. Chính sách công nghệ hóa bị thực thi sai lệch (nói một đàng làm một nẻo)  nên không thể đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo trào lưu thế giới. Tài nguyên thiên nhiên của quốc gia bị thui chột do tham nhũng. Trong khi lịch sử đã cho thấy nhiều lần trong quá khứ rằng dù bị cai trị bởi một thể chế bạo tàn sắt máu đến đâu, người dân luôn “bỏ phiếu” theo bao tử và bằng đôi chân của họ, một điều thú vị là mục tiêu tổng quát của Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg được đề xuất rằng:

 “Huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài NVNONN (người Việt Nam ở nước ngoài) tham gia phát triển đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với mục tiêu phát triển của Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 như Đại hội Đảng lần XIII đã đề ra; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước; củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng NVNONN đóng góp cho đất nước.”

Ngay câu đầu của đoạn trích từ Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg trên đây cùng với quá trình phát triển kinh tế đã sang thời kỳ cứng (của quá trình dẻo-cứng của quá trình phát triển kinh tế) và đang gần đến điểm đổi chiều Lewis (Lewis turning point) cho thấy rằng Đảng và quan chức của chính quyền Việt Nam đã vẳng nghe tiếng còi báo của đoàn xe tốc hành mang tai họa nghiêm trọng và mối đe dọa đến sự tồn vong của đảng và ghế của họ. Đảng và quan chức biết rằng chính họ không thể hạ cánh an toàn trong hoàn cảnh khó khăn nghiêm trọng, do chính họ gây nên, mà đoàn xe tốc hành đang mang đến.

Do đó, chủ đích của Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg không thể nào không là để: (i) đánh phá các cộng đồng người Việt hải ngoại để giảm thiểu sự chống đối, tố cáo, phơi trần  những sai trái, các vi phạm các nguyên tắc dân chủ trong xã hội, hầu giảm thiểu những khó khăn chồng chất trong lãnh vực ngoại giao và ngoại thương; (ii) nhằm vào khối tài chính và kỹ năng kỹ thuật của Việt kiều để cứu vãn hay sửa các thiệt hại nghiêm trọng do chính sách quốc gia của chế độ độc tài độc đảng của VN đã theo đuổi trong gần 40 năm qua – lùa gà hải ngoại.

 

6. Một vài suy tư về vai trò của người Việt hải ngoại

 

Khi người Việt Nam trong nước nhận ngoại tệ, họ phải chuyển sang tiền đồng của VN trước khi có thể sử dụng. Tiền Việt Nam thuộc chủ quyền của chính phủ Việt Nam, nên  qua quá trình chuyển đổi này, chính phủ sẽ là sở hữu chủ và bút toán vào quỹ ngoại tệ dự trữ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc vào túi của ai đó. Công dụng của số lượng ngoại tệ dự trữ là  giúp ổn định nền kinh tế, giá trị của chính đồng tiền Việt Nam và hối suất giữ đồng tiền Việt Nam đối với các ngoại tệ; tất yếu là sẽ gián tiếp bảo vệ chế độ. 

 Các tiềm ẩn quan trọng hơn nữa của kiều hối là hạn mục xuất cảng không vốn (kiều hối) làm gia tăng: (i) số đo lường của trương mục đơn phương chuyển nhượng tài chính ròng, GDP, Cán Cân Thanh Khoản Quốc Tế, của VN bằng số lượng tương đương; và (ii) mức tăng trưởng kinh tế cũng như Giá Trị của Trương Mục Ngoại Tệ Dự Trữ của VN cũng gia tăng một cách đáng kể. Đây là các chỉ số thống kê đo lường thành quả hoạt động kinh tế vĩ mô mà đảng và quan chức với căn bệnh khoe thành tích kinh niên tự hào rao giảng.

Một thí dụ đơn giản sẽ cho thấy tầm quan trọng của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam.  Theo báo cáo, trong năm 2023: (i) GDP của VN là 438,20 tỷ Mỹ kim; (ii) mức tăng trưởng kinh tế là 4,7%; (iii) kiều hối là 16 tỷ (chưa tính đến số ngoại tệ mà Việt kiều chi tiêu khi thăm viếng cũng như giá trị của hàng tiêu thụ xách tay, tiền biếu người thân và bạn bè và làm từ thiện khi họ thăm viếng VN); (iv) Cán Cân Thanh Khoản Quốc Tế thặng dư hay xuất siêu là 12 tỷ Mỹ kim (chưa khấu trừ giá trị nhập cảng lậu từ Trung Quốc)

Để đơn giản, giả dụ rằng kiều hối bị giảm 10 tỷ Mỹ kim và giá trị nhập lậu từ Trung Cộng là 10 tỷ Mỹ kim thì: (i) GDP của Việt Nam bị giảm 20 tỷ Mỹ kim hay 4.56% chỉ còn là 418,20 tỷ Mỹ kim; (ii) Cán Cân Thanh Khoản Quốc Tế thặng dư hay xuất siêu là 12 tỷ bây giờ thành nhập siêu -8 tỷ Mỹ  kim; (iii) mức tăng trưởng kinh tế bây giờ chỉ còn lơ lửng gần zero.  Đồng thời: (i) số lượng ngoại tệ dự trữ sẽ bị giảm; (ii) hối suất của đồng bạc Việt Nam đối với các ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Những ảnh hưởng tiêu cực này sẽ gây khó khăn khá nghiêm trọng đến nền kinh tế của Đảng cũng như ghế của các quan chức chính quyền.

Một hiện tượng khá phổ thông là chúng ta thường cho những gì ta thấy trước mắt là sự thật hay chân lý, nhất là các hiện tượng ở tầm cỡ vĩ mô, mà không suy tư, phân tích, hay so sánh để kiểm nghiệm nhận định của chính mình. Chẳng hạn, kế hoạch “đổi mới” năm 1986, khởi đầu cho quá trình phát triển đất nước trong  gần 4 thập niên qua, được rao giảng và nhiều người trong chúng ta cho là kế sách “ưu việt” này là công lao của đảng và nhà nước Việt Nam, 

Nhưng nếu suy gẫm kỹ hơn, chúng ta có thể thấy rằng chính các rào cản của chủ thuyết kinh tế trung ương hoạch định mà đảng và nhà nước đã áp đặt lên nền kinh tế từ năm 1975 đã đưa nền kinh tế đến khó khăn và nghèo đói.  Kế hoạch “đổi mới” chỉ  là tháo gỡ một số những rào cản mà chính nhà nước cài đặt đưa đến vấn nạn quốc gia để chuyển nền kinh tế sang mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa để người dân có cơ hội để kinh doanh và phát triển. 

Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà cũng do chính đảng và nhà nước tạo ra từ năm 1986, quan chức đã lại bày ra và áp đặt nhiều rào cản mới dưới muôn hình vạn trạng mà  rào cản nguy hại nhất là tạo môi trường cho và dung túng tham nhũng, rồi lại đốt lò để thanh trừng hay triệt hạ phe nhóm đối lập hầu tạo uy tín cá nhân. Các rào cản này cản trở mức độ phát triển kinh tế nghiêm trọng và đưa nền kinh tế đến cửa của bẫy thu-nhập-trung-bình. 

Mặc dù với nhiều rào cản, nền kinh tế VN vẫn đạt được nhiều thành quả đáng kể nhờ vào năng khiếu và tinh thần cầu tiến cùng sáng tạo cá nhân của người dân, và không thể phủ nhận vai trò của kiều hối. Tuy nhiên cũng vì các rào cản này nên nếu so sánh với quá trình khởi sắc của các lân bang trong vùng Đông Nam Á, thì thành quả của VN thật khá khiêm tốn. Dù vậy,  đảng và nhà nước không những che dấu sự thật này mà còn rất tự hào và cho đây là thành quả và công lao cao dày của họ. 

Trên đây là khó khăn nan giải của Đảng Cộng Sản và quan chức Việt Nam.  Hơn nữa, các khó khăn này là do chính họ gây ra mà dường như  hiện nay chính họ không thể khắc phục. Ngoài ra, lịch sử đã cho thấy một cách rõ ràng rằng chế độ độc đảng, độc tài toàn trị không thể mang lại ấm no, thịnh vượng cho dân tộc, dù những lãnh đạo cộng sản luôn biện minh và bảo vệ vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm của họ. Hệ luận tất yếu là để mang lại tự do, ấm no  và hạnh phúc cho dân tộc, thể chế này phải thay đổi. 

Và, như vừa chỉ ra trong thí dụ trên, người Việt hải ngoại có một vũ khí sát thương để thay đổi chế độ đó là nguồn kiều hối và “áo gấm về làng”.

Nghi vấn phải đặt ra là tại sao vũ khí sát thương này không được đem ra để mang lại tự do, ấm no, và hạnh phúc cho người Việt tại Việt Nam? 

Đáp án phổ thông nhất là truyền thống trọng nghĩa tình của người Việt hải ngoại: “chị ngã em nâng” trong gia đình và “lá lành đùm lá rách” ngay cả “áo rách đùm áo tả tơi” ngoài xã hội, và tâm lý không chịu thua kém chòm xóm của một số người thân (keeping up with the Joneses), như đã trình bày trên đây. 

Một lý do khác có thể là có thể là vấn đề sau đây không được tranh luận công khai và tường tận để chỉ ra bản chất thật của người cộng sản. Ở một tầm cỡ nào đó, ngoài bản chất khác, chỉ trên phương diện lý luận thì trong thiên đàng cộng sản thành phần lãnh đạo phải trần truồng. Nhìn vào xã hội Việt Nam ngày nay, quan chức lãnh đạo, ngay cả tại cấp xã cũng sống trong biệt phủ thì thân thể không thể  trần truồng. Thế nên, chúng ta không thể không hoang mang là chủ thuyết cộng sản mà họ tuyệt đối tôn thờ và thiên đàng cộng sản mà họ rao giảng cũng như nhưng lời Bác đã dạy là gì. Ngoài ra, các đảng viên cũng là quan chức luôn có trình độ lý luận cao, nhưng chúng ta thấy họ chỉ thể hiện khi thành khẩn khai báo trước tòa và đem huy chương và bằng khen ra xin giảm án do tham nhũng, chứ không nghe hay thấy họ lý luận hiệu quả hay hợp lý nơi nào khác. 

Một mặt khác nữa là sự hiện hữu rất rõ hiện tượng xã hội Post-truth (do Pinker diễn giải; Pinker, 2018) trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Xã hội Post-truth là một xã hội  mà trong đó các cá nhân hay các tập thể thành viên “không còn đồng thuận về tiêu chuẩn khách quan để minh định sự thực hay chân lý” mà các cá nhân hay tập thể  “đã đồng thuận khi dùng những tiêu chuẩn chủ quan của riêng họ để minh định sự thực hay chân lý theo tư duy của họ”. 

Để nắm bắt vấn đề này, thử quan sát ba làn sóng di dân theo thời điểm họ rời Việt Nam: (i) trước 30 tháng 4, năm 1975; (ii) từ 30 tháng 4, năm 1975 đến 1 tháng 1, năm 2000, và (iii) sau 1 tháng 1, năm 2000. Vì khác biệt lý do và hoàn cảnh khi họ rời Việt Nam cũng như những trải nghiệm của cuộc sống của họ trước khi họ rời VN nên Việt kiều trong các làn sóng di dân này không đồng thuận về tiêu chuẩn khách quan để minh định văn hóa hay cách hành xử của Đảng và quan chức chính quyền VN mà khi suy tư đến đề tài này, mỗi nhóm sẽ dựa vào những tiêu chuẩn chủ quan của riêng họ.

Không những thế mà các cá nhân hay tập thể của các làn sóng di dân này còn khác nhau khá nhiều trong các lãnh vực sau đây: (i) mức độ hội nhập vào xã hội; (ii)  công việc/nghề nghiệp và hiển nhiên những khó khăn hay nhiêu khê của công việc tại quốc gia thứ hai; (iii) nhu cầu và mức độ vui vẻ hạnh phúc khi thăm viếng VN; (iv) vấn đề an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường, an toàn cá nhân khi thăm VN; (v) mức độ gắn bó với gia đình và bạn bè tại VN; (vi) mức độ tương đồng và dị biệt giữa tư duy và văn hóa tại VN;  (vii) khả năng, thiện chí để du lịch/tham quan tại các quốc gia và lãnh thổ khác hơn là VN, có rất nhiều quốc gia và lãnh thổ có nhiều phong cảnh đẹp và hữu tình không kém VN, nhưng đến đây, người Việt sẽ không có “hào quang Việt kiều” như tại VN; và nhiều vấn đề tế nhị khác nữa. Một hệ luận gần như không thể phản biện là do các dị biệt này mà cộng đồng người Việt hải ngoại tại một quốc gia hay lãnh thổ, hay rộng lớn hơn, các cộng đồng Việt kiều tại các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, kể cả tại Việt Nam, đều mang bản chất rõ rệt của một xã hội Post-truth.

Các dữ liệu thống kê, vì chỉ từ một mẫu nhỏ được lấy một cách ngẫu nhiên (a small convenient sample) nên xác suất sai lạc có thể sẽ cao, dường như yểm trợ các luận cứ rằng: dù trong xã hội post-truth như thuyết giải trên, hầu hết các quyết định về kiều hối và áo gấm về làng dựa trên truyền thống trọng nghĩa tình của người Việt hải ngoại cùng với văn hóa của một số người thân tại quê nhà, và các khác biệt (i) –(vii) nêu trên, nhất là trường hợp của số đông người Việt trong làn sóng di dân từ sau 1 tháng 1, năm 2000.

Trong giả định rằng dữ liệu thống kê trên không quá sai lạc thì những quyết định liên quan đến kiều hối và áo gấm về làng mang bản tính cục diện, kích động, theo xu hướng nhất thời (impulsive) và chỉ nhằm vào chủ đích riêng tư mà không quan tâm  đến bao hệ quả tiêu cực, có thể, đến tha nhân, và tập thể  xã hội VN do cách hành sử của đảng và quan chức.  Trong khi những người đưa ra quyết định để hành động này luôn cảm thán về hành vi của Đảng và quan chức Việt Nam như kinh nhật tụng mà lại vô tình tích cực bảo vệ họ bằng hành động phát sinh từ tư duy ích kỷ riêng tư. Các ước mơ và kỳ vọng nhan nhản sau đây phản ảnh bản chất của quyết định mang bản chất nhất thời về kiều hối và áo gấm về làng: tôi cố dành dụm tiền để gửi tiền về cho gia đình tôi có cái tết vui vẻ (hoành tráng) hay gia đình tôi cố dành dụm để về thăm quê và du lịch để ngắm cảnh đẹp, hùng vĩ, và hữu tình tại Việt Nam.

Một tư duy cũng nhằm vào chủ đích riêng tư trong xã hội xã hội Post-truth nữa là nghi kỵ rằng “nếu mình không gửi tiền về giúp người thân sẽ đưa đến hai hệ quả tiêu cực sau đây: (i) người thân sẽ  nghèo khổ, và (ii) trong khi  người khác gửi tiền về không những sẽ  giúp đở người thân của họ mà còn có thể tạo nên cơ hội để ‘ăn trên, ngồi trước’ sau này”.  Lối suy tư này cũng là một nguyên nhân khá quan trọng cho số kiều hối gửi về Việt Nam. 

Một sự thật khó có thể phản biện là không mấy ai bị bắt buộc phải rời quê cha đất tổ để di cư đến các quốc gia Tây Âu và bắc Mỹ; do đó, những nơi này phải có những cái gì đó thu hút những luồn người di dân qua năm tháng trong lịch sử. Ba trong những cái thu hút này chắc phải là tự do, dân chủ, và cơ hội kinh tế, tại các nơi này.

Công dân của một xã hội dân chủ có nhiều quyền tự do, trong số các quyền tự do đó, quyền  quyết định về mọi mặt của cuộc sống của chính mình là quyền cơ bản nhất. Và, cũng trong xã hội dân chủ, các quyết định cá nhân trong xã hội sẽ tập đại thành nền tảng của “nguyên tắc đa số lãnh đạo và quyền của thiểu số (The principle of majority rule and minority right)”. Nền dân chủ của một quốc gia không phải là một thiên khải mà là hình thành qua một chuỗi của các tập đại từ các quyết định của những con người trong xã hội đó qua thời gian

Do đó để xây dựng, bảo tồn nền dân chủ, hay thay đổi nguyên tắc “thiểu số lãnh đạo và đa số là công cụ”, các quyết định cá nhân trong xã hội phải toàn diện, trung thực, và nhất quán. Và, đây là trách nhiệm của những con người yêu chuộng tự do. Hơn nữa, trách nhiệm này không thể hoàn tất bằng những quyết định theo xu hướng nhất thời, chỉ nhằm vào chủ đích riêng tư. Một quyết định toàn diện, trung thực, và nhất quán cho một vấn đề trọng đại đòi hỏi người quyết định phải cẩn thận tìm kiếm (đến mức tối đa có thể) tất cả các yếu tố liên hệ đến vấn đề và phân tích, suy gẫm, đắn đo, so sánh cả hai mặt tích cực (bao gồm cả lợi ích cá nhân) và tiêu cực của các yếu tố này trước khi chọn lựa một quyết định để hành động

Những quyết định theo xu hướng nhất thời hay do thúc dục của người thân từ quê nhà, chỉ nhằm vào chủ đích riêng tư của các thành viên trong trong xã hội và tư duy nghi kỵ, vừa trình bày, qua quá trình tập đại thành thường có thể không những không mang lại kết quả tối ưu mà còn có thể gây nguy hại đến tha nhân, hoặc lợi ích tập thể của xã hội và dân tộc mà lắm khi chính những cá nhân quyết định cũng không ngờ. Trớ trêu thay, dù vô tình hay cố ý, đây là sự lừa dối chính mình, tha nhân, và tập thể xã hội. 

Trở lại chủ đích của những dòng tạp ghi này, người viết không có bất kỳ ảo tưởng nào cho rằng những dữ liệu thống kê, sự kiện, vấn đề, cảm thán trình bày trên đây là trung thực hay độc nhất, vì đây là các vấn đề rất to lớn và phức tạp vượt xa sự hiểu biết cá nhân. Do đó, xin xem đây là một vài nét chấm phá đơn sơ của một bức tranh thủy mạc nên  “chân dung thật” của nó còn tùy theo suy diễn trong tâm tư của mỗi người, được lấy một cách ngẫu nhiên.  

Từ một góc độ khác, các cuộc đấu tranh của  Ba Lan, Tiệp Khắc, và Nam Phi, đã không có Charles de Gaulle của Pháp, mà chỉ có Lech Wałęsa, Václav Havel, và Nelson Mandela; được hiểu là chỉ có người VN quốc nội mới có khả năng đấu tranh cho tự do và hạnh phúc cho dân tộc. 

Tuy nhiên, dùng bạo lực để áp đặt quy luật “thiểu số lãnh đạo và đa số là công cụ” nên Đảng Cộng Sản và  quan chức chính quyền Việt Nam đã đưa nền kinh tế quốc gia vào bẫy thu-nhập- trung-bình mà dường như  họ không thể tìm ra lối thoát tại quốc nội nếu họ không nhìn ra được cái lỗi cơ bản này.  Sau gần nửa thế kỷ,  sức mạnh kinh tế và chất xám của Việt kiều rất lớn và vì văn hóa trọng nghĩa tình đã gián tiếp giúp chế độ vượt qua cơn khủng hoảng vào cuối thập niên 1980. Trong khi tình hình thế giới, nhất là tại Mỹ, đang giao động, chính phủ Việt Nam đang động viên gần như tòan bộ hệ thống chính phủ mang Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg đến sân nhà của các cộng đồng Việt kiều không ngoài chủ đích là lập lại trải nghiệm của cuối thập niên 1980. 

Tại khúc quanh của lịch sử này, các cộng đồng người Việt năm châu trực diện với cơn hồng thủy đang ồ ạt tràn đến để vô hiệu hóa vũ khí sát thương của chúng ta. Như vừa trình bày ở trên, chỉ có người VN quốc nội mới có khả năng đấu tranh cho tự do và hạnh phúc cho dân tộc.  Tuy nhiên, đây là vấn đề trọng đại của đất nước, Việt kiều có trách nhiệm phải chân thật với chính mình và với đồng bào trong nước qua hình thức nhất quán giữa tư duy qua lời nói và hành động. Trong xã hội tự do mà chúng ta đang sống, không cá nhân hay đoàn thể nào có thể áp đặt tư duy của mình lên kẻ khác. 

Do đó, nếu ai  cho rằng chân thật với chính mình và với đồng bào trong nước qua hình thức nhất quán giữa tư duy qua lời nói và hành động là việc nên làm thì  cần cẩn thận tìm kiếm, đến mức tối đa mà mình có thể, tất cả các yếu tố liên hệ đến vấn đề này và phân tích, suy gẫm, đắn đo, so sánh cả hai mặt tích cực (bao gồm cả lợi ích cá nhân)  và tiêu cực của các yếu tố tìm được trước khi chọn lựa một quyết định để hành động trong vấn đề “kiều hối và áo gấm về làng” theo tư duy và hoàn cảnh của chính mình. Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg cũng nhắm vào chất xám từ cộng đồng Việt kiều, những hiện tượng du sinh từ VN luôn tìm đường ở lại, quan chức mua quốc tịch cũng như tài sản ngoại quốc, và quá trình phối trí nhân dụng tại VN là vài biến số, trong nhiều biến số khác, mà các bậc muốn “vác chuông về đánh tại quê hương” nên suy gẫm.  Đồng thời cũng không thể quên rằng tại sao mình đang sống tại đất nước thứ hai này và không có cuộc đấu tranh nào mà không có sự hy sinh, ngay cả đổ máu. 

Qua quá trình này, mỗi cá nhân trong cộng đồng người Việt hải ngoại, dù trong xã hội post-truth, sẽ quyết định và hành động theo tư duy và điều kiện của chính mình trong vấn đề “kiều hối, áo gấm về làng, vác chuông về đánh tại quê nhà”. Những kết quả của tất cả các quyết  định để hành động cá nhân này sẽ tập đại thành số kiều hối và số ngoại tệ từ số lượt áo gấm về làng, cũng như số lượng chuông được mang về đánh tại quê hương.

Nếu hầu hết người Việt hải ngoại cho rằng nên chân thật với chính mình và với đồng bào trong nước qua hình thức nhất quán giữa tư duy qua lời nói và hành động thì đa số các quyết định sẽ không còn chỉ nhằm vào chủ đích riêng tư. Kết quả tất yếu có thể là  kiều hối và số chuông mang về VN tập đại thành vẫn có thể giúp Đảng Cộng Sản tiếp tục áp đặt quy luật “thiểu số lãnh đạo và đa số là công cụ” và bảo toàn ghế của quan chức, để một số chúng ta nhìn cơ hội lịch sử có thể mang lại tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc trôi  qua trong hối tiếc; hay có thể giảm đi giúp thiết lập cơ bản của nền dân chủ “nguyên tắc đa số lãnh đạo và quyền của thiểu số” tại Việt Nam. Dù kết quả nào cũng đều cho đồng bào quốc nội rõ tư duy thật của Việt kiều về Đảng Cộng Sản và quan chức chính quyền cũng như cách hành xử của họ. 

Sau cùng, để thay  lời tạ từ, xin ghi nhận những dòng tạp ghi này là những hạt bụi đời còn lưu đọng lại trên mái tóc đã đổi màu và luyến lưu trong tâm tư của người viết trong những bước chân lần đá qua suối tại quê hương thứ hai.  Do đó, đây chỉ là những suy tư theo thiển kiến của mình về vấn đề rất lớn hiện nay.

Tài liệu tham khảo

  1. IMF. 2023. Vietnam: 2023 Article IV Consultation-Press Release; Staff Report; and    Statement by the Executive Director for Vietnam. IMF Country Rport No. 23/338 (September 27, 2023). https://www.imf.org. Truy cập vào ngày 15, tháng 1, năm 2024.
  2. IMF. Direction of Trade Statistics (DOTS). https://data.imf.org . Truy cập vào ngày 15, tháng 1, năm 2024.
  3. Kang, N., and Paus, E. 2020. The Political Economy of the Middle Income Trap: The Challenges of Advancing Innovation Capabilities in Latin America, Asia and Beyond, The Journal of Development Studies, 56:4, 651-656, DOI: 10.1080/00220388.2019.1595601.
  4. Kleinen, J. 2015. Vietnam: One-Party State and the Mimicry of Civil Society. Occasional Paper-Investigation Series 03. Research Institute on Contemporary Southeast Asia. Bangkok, Thailand.
  5. Klingler-Vidra, R. and Wade, R. 2020. Science and Technology Policies and the Middle-Income Trap: Lessons from Vietnam. The Journal of Development Studies, Vol. 56(4), pp. 717-731, DOI: 10.1080/00220388.2019.1595598.
  6. Lewis, W.A. 1955. The Theory of Economic Growth. Routledge Library Editions (2003), London, U.K., and New York, USA.
  7. Nguyen, C.V., Hiệp, N.P., Lộc, N.B. 2021. Một Góc Nhìn Về Chiến Tranh “Mậu Dịch” Mỹ-Trung Và Hệ Quả Đến Việt Nam. Nhóm Việt 2000, Houston, U.S.
  8. Raj-Reichert, G. 2020. Global Value Chains, Contract Manufacturers, and the Middle-Income Trap: The Electronics Industry in Malaysia, The Journal of Development Studies, 56:4, 698-716, DOI: 10.1080/00220388.2019.1595599.
  9. Pinker, S. 2018.  Enlightenment NOW: The Case for Reason, Science, Humanism, and Progress. Viking, an imprint of Penguin Random House, LLC.
  10. Singer, H. W. 1998. Growth, Development and Trade. Edward Elgar Pub lishing Company, UK.
  11. VietnamNet (2024) Remittances to Vietnam hit record high of US$16 billion in 2023 (03/02/2024). https://vietnamnet.vn/en/remittances-to-vietnam-hit-record-high-of-us-16-billion-in-2023-2246752.html.

Continue Reading

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ