Nguyễn Văn Chữ
Tóm lược:
Mục tiêu của bài viết này là:
(i) lý giải lý thuyết Bàn tay Vô hình của Adam Smith;
(ii) tóm lược những biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội, và công nghệ đã trói Bàn tay Vô hình, vô hiệu hóa sự hữu hiệu của chủ thuyết kinh tế “thị trường” cổ điển theo giả thuyết Bàn tay Vô hình và “cung tạo ra cầu” của Đinh luật Say;
(iii) tóm lược những biến chuyển đưa đến chủ thuyết kinh tế thị trường mới, thuyết giảng và chứng minh rằng trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, và công nghệ mới, chính phủ phải dùng công cụ của chính sách tài chính công và tiền tệ để điều tiết hoạt động kinh tế quốc gia;
(iv) do nhu cầu can thiệp của chính quyền, các quốc gia phát triển ngày nay đều có nền kinh tế pha trộn (mixed economy);
(v) Việt Nam với thể chế độc đảng, toàn trị, và nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa vào bản chất pha trộn của các nền kinh tế phát triển để đưa ra những biện minh yêu cầu Mỹ công nhận có nền kinh tế thị trường;
(vi) dựa trên dữ liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF) và chính sách phát triển của thể chế Việt Nam đưa ra giả thuyết tại sao Hà Nội gấp rút yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường
(vii) liệt kê 6 tiêu chí mà Bộ Thương Mại (BTM) Mỹ căn cứ để xem xét các quốc gia đối tác có “nền kinh tế thị trường” hay không;
(viii) tóm lược luận cứ Hà Nội và thư gửi BTM Mỹ của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (the US-ASEAN Business Council) về nền kinh tế Việt Nam, và đưa những điều bất cập trên bình diện lý thuyết và thực tiễn đã và đang xẩy ra tại Việt Nam như là những phản biện;
và sau cùng (ix) đưa ra một vài suy tư để thay lời kết.
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 1)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 2)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 3)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 4)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 5)
2. Các biến đổi đưa đến bản chất của nền kinh tế “thị trường” ngày nay
Xuyên thời gian, lịch sử cho thấy rằng cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất (1760-1830), làm thay đổi điều kiện kinh tế – xã hội, chính trị và quy trình sản xuất ở Anh; tiếp theo là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai (1870-1914) phát triển mạnh mẽ công nghệ không chỉ ở Anh một lần nữa, mà còn ở Đức, Mỹ và Pháp; tuy nhiên, với tốc độ chậm hơn ở Ý và Nhật. Những cuộc cách mạng công nghệ này đã làm thay đổi cấu trúc và đặc điểm của nền kinh tế của họ một cách sâu rộng sau đây:
- Đòi hỏi các cơ sở lớn hơn trong công cuộc sản xuất;
- Tăng năng suất lao động;
- Điều kiện làm việc cực kỳ tồi tệ và không an toàn cho người lao động;
- Mức lương của người lao động không được điều chỉnh theo mức tăng của năng suất nên rất thấp; và
- Người lao động không thể thương lượng riêng lẻ để cải thiện điều kiện là việc và mức lương cao hơn ở các nền kinh tế này.
Các điều kiện kinh tế và xã hội trên đưa đến không những là nền tảng cho Karl Marx đưa ra Tư Bản Luận mà Lenin và Stalin đã dùng như là nền tảng lý thuyết để thiết lập nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong khối cộng sản mà còn những thay đổi sau đây trong thế giới phương Tây:
- Sản phẩm được kinh doanh theo hợp đồng quy định các thông số kỹ thuật của sản phẩm và giá của chúng trước khi giao hàng;
- Thị trường chứng khoán được thành lập để xây dựng cơ sở sản suất; và
- Công đoàn được thành lập để đại diện/bảo vệ người lao động, dẫn đến hợp đồng lao động xác định trước mức lương của họ và cải thiện điều kiện làm việc.
Các thỏa thuận hay hợp đồng trên đã thiết lập các rào cản pháp lý và xã hội, tạo ra những trở ngại cho khả năng và một số giá cả trong nền kinh tế không thể giảm khi thặng dư trong các trị trường riêng lẻ, nhất là trị trường lao động. Nói một cách khác, trong điều kiện kinh tế, chính trị, và xã hội mới, một số giá cả không thể giảm khi cung lớn hơn cầu; nhất là trong thị trường nhân dụng. Điều này vi phạm giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith, tức là, cấu trúc giá tổng thể sau đó không thể giảm mà không bị cản trở, có thể hiểu là Bàn tay Vô hình của Smith đã bị trói bởi các thay đổi nêu trên.
3. Các khác biệt bản chất của các nền kinh tế của các quốc phát triển
Hai cuộc cách mạng kỹ nghệ tạo ra nhu cầu tài chính để xây dựng các cơ sở sản xuất cho công cuộc sản xuất quy mô đưa đến các vấn đề không thể dự đoán trong thị trường tài chính: khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng đầu tiên của thế kỷ 20.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu khi ông Clarence Charles Hatry sử dụng tín dụng của doanh nghiệp của ông làm tài sản thế chấp để vay nợ ngân hàng để mua chuỗi các công ty sản xuất thép United Steel ở Anh và đã được ngân hàng cam kết cho vay; tuy nhiên, đã rút cam kết vào phút cuối.
Để giải quyết vấn đề khẩn cấp và nghiêm trọng này cho dự án, ông Hatry đã gian lận bằng cách in bản sao của các cổ phiếu đã phát hành của công ty của ông và sử dụng chúng làm tài sản thế chấp để vay mượn hầu tiếp tục công trình. Khi bị phát hiện, thị trường tài chính đã phản ứng một cách tiêu cực và vô cùng mạnh mẽ đưa đến các hiện tượng sau đây:
- Giá trị cổ phiếu của công ty ông trở thành zero; và
- Một cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khiến thị trường chứng khoán của tất cả các nước công nghiệp phát triển đi xuống không phanh.
- Các rào cản pháp lý và xã hội nói trên đã ngăn cản thị trường lao động điều chỉnh mức lương dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp lần lượt là hơn 25% và 20% ở Anh và Mỹ;
- GDP của các quốc gia bị ảnh hưởng đều thấp hơn GDP tiềm năng của họ khi lực lượng lao động được tận dụng, và,
- Tình trạng thất nghiệp tồn tại dai dẳng.
Hệ quả của khủng hoảng tài chính đầu của thế kỷ 20
Theo giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith thì nạn thất nghiệp lần lượt là hơn 25% và 20% ở Anh và Mỹ, và rất cao tại nhiều quốc gia phát triển khác trong thị trường nhân dụng (mất quân bình vì số lượng người muốn làm việc cao hơn số người mà các cơ sở sản suất muốn xử dụng trong quá trình sản xuất, thị trường đơn lẻ trong mỗi nền kinh tế), chỉ là trạng thái tạm thời vì giá trong thị trường này (mức lương) sẽ giảm và sẽ tái lập một trạng thái cân bằng mới. Tuy nhiên, các hợp đồng lao động xác định trước mức lương đã vô hiệu hóa giả thuyết về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh nên thị trường nhân dụng tại các quốc gia này không thể thiết lập mức quân bình mới.
Kết quả tất yếu của vấn nạn không thể thiết lập mức quân bình mới trong thị trường nhân dụng đưa đến một phần của cơ sở sản xuất bị bỏ không là GDP của nền kinh tế trong điều kiện này sẽ thấp hơn GDP tiềm năng khi lực lượng lao động và cơ sở sản xuất được tận dụng trong quá trình sản xuất trong nền kinh tế.
Sự chào đời của các nền kinh tế thị trường hiện đại
Trong điều kiện kinh tế vừa trình bày trên, định luật Say cũng đảm bảo rằng số cung sẽ tạo ra số cầu hay sự cân bằng cung cầu vĩ mô; tuy nhiên, sự quân bình này chỉ ở mức độ GDP đươc sản xuất khi lực lượng lao động và cơ sở sản xuất không được tận dụng trong quá trình sản xuất của nền kinh tế. Đây được gọi là sự quân bình vĩ mô với mức độ nhân công xử dụng trong quá trình sản xuất thấp hơn lực lượng lao động (Macroeconomic equilibrium with less than full employment).
Sự quân bình vĩ mô với mức độ nhân công xử dụng trong quá trình sản xuất thấp hơn lực lượng lao động nhưng mức lương nhân công trong thị trường nhân dụng không thể giảm do các khế ước lao động giữa nghiệp đoàn và lãnh đạo các cơ sở sản xuất nên không có lực lượng thị trường (market force) nào phá vở sự quân bình này. Kết quả tất yếu trên bình diện lý thuyết cũng như thực trạng của các nền kinh tế tại các quốc gia có công nghệ cao cho thấy là sự quân bình này không là trạng thái tạm thời mà rất dai dẵng từ năm 1929 đến năm 1933, sau khi Keynes đưa ra giả thuyết mới lý giải bản chất và cách vận hành của hoạt động kinh tế vĩ mô và phương cách để đưa các nền kinh tế bị mắc kẹt ra khỏi vướng mắc.
Keynes lý giải rằng các nền kinh tế này bị mắc kẹt ở trạng thái quân bình vĩ mô có GDP với mức thất nghiệp cao vì không có lực lượng thị trường hiện hữu nào kéo chúng ra khỏi tình trạng cân bằng này. Từ lý giải này, Keynes (Keynes, 1936) triển khai một lý thuyết kinh tế mới mang tên ông, Kinh tế Vĩ mô Keynesian (Keynesian Macroeconomics hay chỉ Keynesian Economics) và gọi tất các lý thuyết về kinh tế được triển khải trước năm 1936 là trường phái Kinh tế Cỗ điển (Classical Economics).
Kinh tế Vĩ mô Keynesian cùng với các trường phái kinh tế vĩ mô khác sau đó đều, với các tầm cở khác nhau nào đó, xem sự can thiệp của chính phủ để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô quốc gia bằng chính sách Tài chính Công (Fiscal Policy) và chính sách Tiền tệ (Monetary Policy) là cần thiết. Do đó, tất cả các quốc gia trên thế giới ngày nay, ngoại trừ Cuba và Bắc Hàn, đều có nền kinh tế với mức độ can thiệp khác nhau của chính phủ. Vì có sự can thiệp của chính quyền nên các các quốc gia này có nền kinh tế pha trộn/hỗn hợp (mixed economy). Và, quan trọng nhất là mục tiêu của các sự can thiệp là cải thiện phúc lợi của người dân.
Mục tiêu của chính sách và sự khác biệt giũa các nền kinh tế hiện nay
Ngày nay, mọi chính phủ đều triển khai chính sách kinh tế để điều hành (can thiệp) hoạt động kinh tế quốc gia. Chính sách kinh tế quốc gia đặt ra các mục tiêu kinh tế của chính phủ. Bởi vì mức độ can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế quốc gia khác nhau, nên các chính sách kinh tế giữa các quốc gia khác nhau sẽ phải dị biệt.
Mặc dù tầm quan trọng của các mục tiêu cấu thành của chính sách kinh tế có thể khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới, các chính sách kinh tế tại tất cả các quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp theo đuổi bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô chính sau đây:
- Tăng trưởng (growth); và
- Tính ổn định (Stability).
Về vấn đề phân chia sự khác biệt giữa các nền kinh tế hiện nay, khi chia sẻ với Đài Á Châu Tự do (RFA) người viết (RFA, 2024) lập luận rằng tuy khó khăn, phức tạp và gây tranh cãi, cũng như ranh giới của các phân chia có thể không được xác định rõ ràng; tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, các chính sách kinh tế hiện tại, ngoài Cuba và Bắc Hàn, có thể được phân loại như sau:
(i) Các chính sách kinh tế của các quốc gia độc đảng, tập trung vào việc bảo vệ
Đảng, quyền lực của các đảng viên và các quan chức chính phủ, có thể được phân loại là chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa.
(ii) Chính sách kinh tế ở các nước dân chủ với vai trò của chính phủ ( mức độ
can thiệp của chính phủ) vào nền kinh tế tương đối thấp so với vai trò của thị trường (nguyên tắc thị trường), là những nền kinh tế tập trung tương đối nhiều hơn vào hiệu quả, tăng trưởng và ổn định, như nền kinh tế Mỹ, có thể được xếp vào chính sách kinh tế thị trường.
(iii) Chính sách kinh tế ở các nước dân chủ có vai trò của chính phủ trong nền
kinh tế tương đối cao so với vai trò của thị trường, đó là những nền kinh tế quan tâm nhiều hơn đến sự công bằng, hiệu quả và ổn định, giống như nền kinh tế của các nước Bắc Âu, có thể được xếp vào chính sách kinh tế thị trường xã hội.
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 1)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 2)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 3)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 4)
Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam (phần 5)