By Tuong Vu
Điểm sách: Vinh-Thế Lâm, Lịch sử miền Nam Việt Nam: Truy tìm tính hợp pháp và ổn định, 1963-1967 (New York: Chuỗi công trình nghiên cứu về Đông Nam Á đương đại của Routledge, 2021). ISBN 9780367621216.
Vinh-The Lam, The History of South Vietnam: The Quest for Legitimacy and Stability, 1963-1967 (New York: Routledge Contemporary Southeast Asia Series, 2021). ISBN 9780367621216.
***
Tôi rất hân hạnh được giới thiệu ấn bản tiếng Anh của cuốn Lịch sử miền Nam Việt Nam: Đi Tìm sự Chính Danh và Ổn Định, 1963-1967 của nhà nghiên cứu Lâm Vĩnh Thế. Tác phẩm này là công trình nghiên cứu đầu tiên về chính trị Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong những năm 1963 – 1967, tức giai đoạn nằm giữa thời điểm sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hòa dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và sự thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Đây là một thời kỳ hỗn loạn, chứng kiến sự bất ổn chính trị nghiêm trọng. Một bên là các tướng lĩnh đầy tham vọng, những người luôn ủ mưu giành chính quyền thông qua các cuộc đảo chính. Một số thành công và những người khác thất bại. Mặt khác, có nhiều nhóm tôn giáo và xã hội dân sự khác đã biểu tình dữ dội trên đường phố để yêu cầu có được đại diện chính trị và trách nhiệm giải trình của hệ thống. Ngoài ra, một số đảng phái chính trị và các phe nhóm trong khu vực của họ, vốn thiếu các cơ sở quần chúng của riêng họ, đã tìm cách tự đặt mình vào vị trí nằm giữa quân đội và phong trào Phật giáo.
Hóa ra không ai có thể nắm quyền lâu dài. Trong bối cảnh chính trị rối ren đó, hai thế lực bên ngoài là Cộng sản và Mỹ lại càng làm cho nước thêm đục ngầu. Thông qua các hoạt động chiến tranh và khủng bố leo thang, những người Cộng sản đã cố gắng làm trầm trọng thêm tình hình để mở đường cho việc tiếp quản Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ thì tìm cách ổn định tình hình để có thể mở rộng chiến tranh với vai trò lớn hơn của các lực lượng của mình.
Một đặc vụ cộng sản, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, đã lãnh đạo một cuộc đảo chính thất bại. Nếu cuộc đảo chính này thành công, Hà Nội có thể nhanh chóng tiếp quản miền Nam lúc đó. Ngược lại, Hoa Kỳ đã đầu tư rất nhiều vào Tướng Nguyễn Khánh chỉ để phát hiện ra rằng ông ta kém cỏi và không đáng tin cậy.
Cả hai ví dụ đều cho thấy rằng các lực lượng bên ngoài đã làm cho sự hỗn loạn tăng thêm nhưng không đạt được những gì họ muốn.
Đến năm 1965, sau khi Tướng Nguyễn Khánh rời khỏi chiến trường, tình hình trở nên ổn định hơn với một nhóm tướng nòng cốt, cái gọi là “Young Turks,” nắm quyền kiểm soát chính phủ.
Tình trạng bất ổn xã hội tiếp tục và lên đến đỉnh điểm vào năm 1966 khi chính phủ dưới quyền của Tướng Nguyễn Cao Kỳ phải đối mặt với một cuộc nổi dậy của quần chúng ở miền Trung Việt Nam do các nhà sư Phật giáo lãnh đạo và được hỗ trợ bởi một phe quân sự.
Miền Nam khi đó thoát khỏi cuộc khủng hoảng, với việc chính phủ Kỳ thắng thế và ban hành một hiến pháp mới, tự do và cho phép tiến hành các cuộc bầu cử dân chủ cơ quan lập pháp và tổng thống của nền Cộng hòa thứ hai vào năm 1967.
Bất chấp mọi sóng gió, thời kỳ giữa hai nền Cộng Hòa là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử của Miền Nam Việt Nam và Việt Nam nói chung.
Đối với miền Nam Việt Nam, đó là thời điểm mà các nguồn năng lượng xã hội to lớn được giải phóng sau nhiều năm bị chế độ Ngô Đình Diệm kìm hãm. Khi các đảng chính trị được hợp pháp hóa, các nhóm xã hội dân sự sinh sôi nảy nở và báo chí phát triển mạnh. Đó là thời kỳ mà nền tảng của một trật tự tự do hiện đại được tạo ra mặc dù trật tự đó vẫn chưa ổn định và sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn sau này.
Đối với lịch sử Việt Nam, giai đoạn này có thể được ví như giai đoạn 1945-1946 khi diễn ra tương tác xã hội và chính trị gay gắt ở mức độ tương tự. Trong cả hai thời kỳ, một khoảng trống quyền lực lớn đột ngột xuất hiện sau nhiều năm bất động về chính trị. Năm 1945, những người cộng sản đã giành được chính quyền và dần dần tiêu diệt các đối thủ của họ ở miền Bắc vào mùa hè năm 1946 trước khi chiến tranh nổ ra vào cuối năm giữa họ và quân Pháp trở lại. Giai đoạn 1964-1967 cũng diễn ra giữa chiến tranh nhưng kết thúc với một kết quả tích cực hơn: các lực lượng xã hội dân sự đã làm cho phe quân đội phải chấp nhận một hệ thống chính trị tự do, trong đó sự tham gia của xã hội dân sự đã được thể chế hóa.
Tư liệu về Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tồn tại từ 1955 đến 1975 rất hạn chế. Trong một thời gian dài, lịch sử chính thống của Hoa Kỳ đã bị ảnh hưởng bởi tuyên truyền từ Hà Nội và coi chế độ Sài Gòn chỉ là một sản phẩm của Hoa Kỳ trong chiến lược kiềm chế chủ nghĩa cộng sản ở Châu Á. Theo quan điểm này, “dự án Nam Việt Nam” của Mỹ bị tiêu tùng ngay từ đầu do thiếu cội nguồn bản địa. Đối với hầu hết các sử gia ngoại giao Mỹ, không cần nghiên cứu về VNCH vì có thể cho rằng VNCH không quan trọng, người Mỹ mới là bên đưa ra mọi quyết định chủ yếu.
Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ thường bị đồng minh miền Nam Việt Nam bắt làm con tin, mặc dù có sự bất cân xứng về quyền lực giữa hai bên. Thay vì trở thành con rối của Mỹ, giới tinh hoa Sài Gòn có tầm nhìn chính trị của riêng họ, và đã nỗ lực hết sức để tạo ra một quốc gia có thể đứng vững giữa một cuộc chiến không phải do họ lựa chọn.
Không phải là hầu hết người Miền Nam là “cảm tình viên” đối với phía Cộng sản như cách kể chuyện của các sử gia ngoại giao, thực tế người dân miền Nam Việt Nam có quan điểm chính trị đa dạng và chiến đấu dũng cảm để buộc những người cầm quyền ở Sài Gòn phải chịu trách nhiệm với nền chính trị dân chủ của họ.
Giai đoạn 1964-1967 được cho là ví dụ điển hình nhất về những động lực tranh chấp như vậy trong nền chính trị miền Nam Việt Nam.
Hơn nữa, đối với tất cả các vấn đề của Nam Việt Nam giai đoạn này, điều quan trọng cần lưu ý là tình trạng hỗn loạn giai đoạn 1963 – 1967, hay rộng hơn là những thăng trầm trong nền chính trị của VNCH trong hai thập kỷ tồn tại của nó, không phải là điều gì đó đặc thù riêng của Nam Việt Nam, hay là một dấu hiệu của một chế độ không thể thay đổi được, có gì trái với xã hội hoặc hệ thống chính trị của nó.
Thực vậy, những vấn đề tương tự đã xảy ra ở tất cả các nước láng giềng phi cộng sản của Nam Việt Nam, bao gồm Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Miến Điện và Philippines, trong một hoặc hai thập kỷ đầu tiên sau chế độ thuộc địa. Tất cả đều trải qua chế độ độc tài cá nhân, đảo chính quân sự, nổi loạn khu vực, nổi dậy Cộng sản và thời kỳ hỗn loạn tột độ.
Nam Việt Nam năm 1964-66 về nhiều mặt giống với Hàn Quốc năm 1960-61, Indonesia năm 1964-66, Thái Lan năm 1973-74, Philippines năm 1986-87 và Miến Điện năm 1989-90.
Điểm khác biệt là không quốc gia nào ngoại trừ Nam Việt Nam phải đối mặt với nỗ lực xâm chiếm trực tiếp của một quốc gia khác, và tất cả, kể cả Miến Điện, đã dần dần thoát khỏi sự tình trạng bất ổn đó. Một số đã đạt được những thành tích kỳ diệu về kinh tế, và tất cả hiện nay đều có hệ thống chính trị cho phép sự cạnh tranh chính trị, nếu không muốn nói là dân chủ tự do.
Không dùng chữ “nếu” với quá khứ, tôi không có ý nói rằng VNCH sẽ trở thành một nền dân chủ tự do như Hàn Quốc nếu nó tiếp tục tồn tại. Tôi muốn nói rằng các sử gia nên tránh quan niệm lịch sử cho rằng sự thất bại của VNCH là tất yếu do bởi các đặc tính nội tại của nó. Các sinh viên về chính trị và lịch sử Việt Nam mang ơn ông Lâm Vĩnh Thế vì những phân tích đầy thông tin của ông về chính trị miền Nam Việt Nam trong những năm quan trọng giữa hai nước cộng hòa. Cuốn sách này chắc chắn sẽ kích thích sự quan tâm lớn hơn đối với lịch sử Việt Nam Cộng hòa trong nhiều năm tới.