Lịch sử Việt-Mỹ
Quan hệ Campuchia và Đại Nam năm 1843 qua một số tư liệu tiếng Khmer

Published on

Tác giả: KHIN SOK
Dịch và chú giải: Nhà nghiên cứu Trần Quốc Nam
La Bibliothèque Nationale de Bangkok conserve des documents en cambodgien qui sont notamment des messages échangés entre les princes et les princesses khmers ou des rapports envoyés par le roi et les gouverneurs khmers pour informer le roi du Siam de la situation politique au Cambodge et en Cochinchine. Parmi ces documents, il y en a trois qui révèlent que le roi Ang Duong désirait rétablir les échanges commerciaux entre le Cambodge et l’Annam en 1843. Le premier est le message de réponse de la reine Ang Mei à une lettre perdue du roi Ang Duong qui sans doute lui demandait d’agir en ce sens auprès des Vietnamiens. Le deuxième est une lettre de la reine mère, Mneang Ros adressée à Ang Duong sur le même sujet. Le troisième enfin est la traduction en khmer d’une lettre de deux généraux vietnamiens au gouverneur de la province de Baphnom.
Dans les pages qui suivent, nous décrirons d’abord la situation politique du Cambodge par rapport au Siam et à l’Annam dans la première moitié du XlXè siècle et nous présenterons ensuite les trois documents.
Thư viện Quốc gia Bangkok lưu giữ các tài liệu bằng tiếng Campuchia, bao gồm các thư tín trao đổi giữa các hoàng tử và công chúa Khmer hay các báo cáo do vua và thống đốc Khmer gửi để thông báo cho vua Xiêm về tình hình chính trị ở Campuchia và Nam Kỳ. Trong số các tài liệu này, có ba tài liệu[1] tiết lộ rằng vua Ang Duong muốn tái lập các trao đổi thương mại giữa Campuchia và An Nam vào năm 1843. Tài liệu đầu tiên là bức thư hồi đáp của Nũ vương Ang Mei cho một lá thư vốn đã bị thất lạc của vua Ang Duong, lá thư chắc chắn đã yêu cầu Đức bà hành động theo hướng này với người Việt. Thứ hai là bức thư của Thái hậu Mneang Ros gửi cho vua Ang Duong về cùng chủ đề. Thứ ba là bản dịch sang tiếng Khmer một lá thư của hai vị tướng Việt gửi cho tổng đốc tỉnh Baphnom.
Trong những trang tiếp theo, trước hết, chúng tôi sẽ mô tả tình hình chính trị của Campuchia liên quan đến Xiêm và An Nam trong nửa đầu thế kỷ 19 và sau đó chúng tôi sẽ giới thiệu ba tài liệu này.
- Contexte historique
Tableau généalogique de la famille du roi Ang Eng.
- Bối cảnh lịch sử[2]
Bảng phả hệ của gia đình vua Ang Eng.
Au moment de la mort du roi Ang Eng3 en 1796, ses cinq fils, Ang Chan, Ang Snguon, Ang Bhim, Ang Im et Ang Duong étaient encore tout jeunes. La régence du royaume fut donc confiée, à Chaovea Tolha nommé Pok qui exerçait la fonction de premier ministre. En 1799, le roi du Siam Rama 1er4 demanda à Pok d’envoyer une armée pour aider le prince Nguyên Anh5 à combattre les rebelles Tai Son.6 En 1805, après la victoire sur ces derniers et pour marquer sa reconnaissance, le roi d’Annam chargea un ambassadeur d’apporter des cadeaux à Ang Chan. Un an après, Chaovea Pok mourut. Son frère cadet assura la régence du Cambodge. En 1806, le roi du Siam organisa à Bangkok la consécration du prince Ang Chan âgé de 16 ans. Il prit le nom d’Outey Reachea et rentra la même année dans sa capitale d’Oudong. En 1807, le roi Gia Long envoya à la cour du Cambodge des cadeaux composés d’un cachet carré en or, des statuettes de lion en argent et cinq cents Vietnamiens.7 En 1809, un mandarin khmer nommé Oknha Dêcho Moeung refusa de se soumettre à Outey Reachea et s’enfuit à Bangkok. En 1810, le roi du Siam, Rama II8 nomma Ang Snguon Moha Obhayoreach et Ang Im, Moha Oparach.9
Khi vua Ang Eng[3] qua đời vào năm 1796, năm hoàng tử của vua, Ang Chan, Ang Snguon, Ang Bhim, Ang Im và Ang Duong, vẫn còn rất trẻ. Do đó, quyền nhiếp chính vương triều được trao cho Chaovea Tolha tên là Pok, vị này đang nhậm chức tể tướng. Năm 1799, vua Xiêm Rama I[4] yêu cầu Pok cử một đội quân trợ giúp hoàng tử Nguyễn Ánh[5] trong cuộc chiến chống lại quân nổi dậy Tây Sơn. Vào năm 1805, sau chiến thắng trước Tây Sơn[6], để bày tỏ lòng biết ơn, vua An Nam đã cử một sứ thần mang lễ vật đến dâng tặng vua Ang Chan. Một năm sau, Chaovea Pok qua đời, và em trai ông đảm nhận vai trò nhiếp chính của Campuchia. Năm 1806, vua Xiêm tổ chức lễ sắc phong cho hoàng tử 16 tuổi Ang Chan tại Bangkok. Nhà vua lấy hiệu Outey Reachea và trở về kinh đô Oudong trong cùng năm đó. Năm 1807, vua Gia Long gửi quà tặng đến triều đình Campuchia, bao gồm một cái ấn vuông bằng vàng, các bức tượng sư tử bằng bạc và năm trăm người Việt[7]. Năm 1809, một viên quan Khmer tên Oknha Dêcho Moeung bất phục Outey Reachea và đào thoát qua Bangkok. Vào năm 1810, vua Xiêm Rama II[8] phong Ang Snguon làm Moha Obhayoreach và Ang Im làm Moha Oparach[9].
L’année suivante, Ang Snguon désirant posséder le trône du Cambodge, quitta le palais d’Oudong pour s’installer à Pursat; le roi Ang Chan essaya en vain de le faire revenir et sentant son pouvoir menancé, il se décida à demander une aide au roi Gia Long, qui chargea le général Duong Minh Tuong de le protéger à l’aide d’une armée de cinq cents hommes, en s’installant sur la rive orientale du Tonlé Sap, en face de Kompong Luong. Le roi du Siam envoya de son côté une armée pour renforcer la position du prince Ang Snguon. En 1812, la guerre entre lex deux princes commença. Ang Chan quitta Oudong et se dirigea vers le Sud du pays; il s’installa d’abord dans le village de Kbal Koh Die Eth, l’actuel Srok de Kien Svay. Mais l’alliance avec les Vietnamiens fut très contestée par les princes Ang Im et Ang Duong, qui décidèrent de quitter leur frère et de rejoindre Ang Snguon au Siam, tandis que le roi Ang Chan et une partie de la famille royale continuaient leur chemin jusqu’à Banh Nhê.
Năm sau, Ang Snguon muốn chiếm đoạt ngai vàng Campuchia nên đã rời cung điện ở Oudong tới ngự ở Pursat; Vua Ang Chan đã uổng công tìm cách đưa hoàng tử quay về và cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa, vua quyết định cầu viện vua Gia Long. Vua Gia Long đã trao quyền bảo vệ Ang Chan cho tướng Dương Minh Tuong với một đội quân năm trăm người, tướng quân dựng trại ở bờ đông sông Tonlé Sap, đối diện với Kompong Luong. Về phía mình, vua Xiêm đã phái đội quân đến để củng cố vị thế của hoàng tử Ang Snguon. Năm 1812, cuộc chiến giữa hai vị vương bắt đầu. Ang Chan rời Oudong và đi về phía Nam đất nước; thoạt đầu ông định cư tại làng Kbal Koh Die Eth, nay là Srok Kien Svay. Nhưng liên minh với người Việt đã bị các hoàng tử Ang Im và Ang Duong phản đối dữ dội, họ quyết định rời bỏ anh trai mình và về với Ang Snguon ở Xiêm, trong khi vua Ang Chan và một phần hoàng gia tiếp tục hành trình đến Banh Nhê[10].
En 1813, au palais d’Oudong, il ne restait plus qu’une petite armée siamoise. Un général vietnamien nommé Ta Kun conduisit Ang Chan et la famille royale jusqu’à Kompong Luong et les mandarins qui n’étaient pas partis au Siam vinrent inviter le roi à s’installer à Oudong. Ang Chan, voulant rétablir l’alliance avec le Siam, envoya un message et des cadeaux au roi Rama II qui en fut très satisfait. A partir de ce moment-là, le Cambodge fut pratiquement divisé en deux et chaque partie devint progressivement vassale l’une du Siam et l’autre de l’Annam.
En 1815, le roi Gia Long employa la population khmère de la province de Moat Chrouk 11 à construire une citadelle et à creuser les deux canaux, Vinh Té long de 53 km et Vinh An de 13, 7 km.
Vào năm 1813, tại Hoàng cung Oudong, chỉ còn lại một đội quân Xiêm nhỏ. Một viên tướng Việt tên là Ta Kun đã dẫn Ang Chan và gia đình hoàng gia đến Kompong Luong và các quan lại chưa sang Xiêm đã tới mời nhà vua về ngự ở Oudong. Ang Chan, muốn tái lập liên minh với Xiêm, vua đã gửi một lá thơ và tặng phẩm cho Vua Rama II, Vua Rama II tỏ ra rất hài lòng. Từ thời điểm đó, Campuchia thực tế bị chia thành hai phần và phần dần trở nên lệ thuộc Xiêm và phần còn lại thì lệ thuộc An Nam.
Năm 1815, vua Gia Long đã dùng người Khmer ở tỉnh Moat Chrouk[11] xây dựng thành quách và đào hai kinh, kinh Vĩnh Tế dài 53 km và kinh Vĩnh An dài 13,7 km.
En 1822, le prince Ang Snguon mourut à Bangkok, à l’âge de 29 ans. Vers la fin de 1832, les Siamois attaquèrent le Cambodge par le Nord, ils réussirent à occuper le palais d’Oudong et Ang Chan s’enfuit dans la province de Long Ho. Ang Im et Ang Duong, avec l’aide du général siamois Padin Dêchea, poursuivirent les Vietnamiens jusqu’à cette province, mais Ang Chan et les Vietnamiens contre-attaquèrent et l’armée khméro-siamoise dut se retirer à Phnom Penh puis à Kompong Svay, srok de l’actuelle province de Kompong Thom. Après cette victoire, Ang Chan vint s’installer à Koh Sla Koet où il mourut en 1834, à l’âge de 44 ans. Des membres de la famille royale il ne restait plus que les quatre princesses, Ang Pên, Ang Mei, Ang Peou et Ang Snguon et les mandarins importants étaient également morts. En 1835, le général vietnamien Kham Mang désigna comme reine la princesse Ang Mei qui demeura à Koh Sla Koet. La situation du Cambodge préoccupait toujours les Siamois et ils envoyèrent alors le prince Ang Im à Battambang et le prince Ang Duong à Mongkolborei.
Năm 1822, hoàng tử Ang Snguon qua đời ở Bangkok ở tuối 29 tuổi. Khoảng cuối năm 1832, người Xiêm tấn công Campuchia từ phía Bắc, họ chiếm được Hoàng cung Oudong và Ang Chan chạy trốn đến Dinh Long Hồ[12]. Với sự giúp đỡ của tướng Xiêm Padin Dêchea, Ang Im và Ang Duong đã truy đuổi quân Việt tới tận Dinh này, nhưng Ang Chan và quân Việt phản công và quân Khmer-Xiêm phải rút lui về Phnom Penh rồi lui tiếp về Kompong Svay, một srok thuộc tỉnh Kompong Thom ngày nay. Sau chiến thắng này, Ang Chan đến ngự Koh Sla Koet[13], nơi ông băng hà năm 1834 ở tuổi 44 tuổi. Trong số các thành viên của hoàng tộc, chỉ còn lại bốn công chúa, Ang Pên, Ang Mei, Ang Peou và Ang Snguon và các quan trọng thần cũng đều qua đời. Năm 1835, tướng Việt Kham Mang lập ngôi cho công chúa Ang Mei, công chúa đang ở tại Koh Sla Koet. Tình hình Campuchia luôn ám ảnh người Xiêm và sau đó họ đã đưa hoàng tử Ang Im tới Battambang và hoàng tử Ang Duong tới Mongkolborei.
La reine Ang Mei n’était plus en fait que le symbole de la royauté: elle n’avait aucun pouvoir et le général vietnamien Truong Kun assurait en fait le gouvernement de la partie méridionale du Cambodge; voulant se rendre maître de tout le pays, il prépara un plan pour neutraliser les deux autres princes. Il fit porter une lettre à Ang Im pour lui souhaiter la bienvenue et lui demander de monter sur le trône. Ce dernier, ambitieux et égoiste, se laissa prendre au piège et envoya un message à Bangkok pour diffamer injustement son frère, lui reprochant d’avoir pris contact avec les Vietnamiens en vue de régner à Oudong. Le prince Ang Duong fut immédiatement ramené dans la capitale siamoise et il lui fut interdit de retourner au Cambodge. En 1837, le prince Ang Im se rendit à Oudong; il fut emmené à Phnom Penh puis à Saigon où il rencontra le général Truong Kun, qui l’envoya à Hué pour qu’il y fût gardé à vue.
Trên thực tế Nữ vương Ang Mei chỉ còn là một biểu tượng của vương quyền, bà chẳng có quyền hành gì. Viên tướng Việt Truong Kun[14] thực tế đã nắm quyền hành ở miền nam Kampuchia. Do muốn làm chủ cả nước, ông lên kế hoạch để vô hiệu hóa hai vị hoàng tử còn lại. Truong Kun gửi thư chào đón Ang Im và đề nghị vương lên ngôi. Vị hoàng tử này, một người nhiều tham vọng và ích kỷ, đã mắc bẫy và gửi thư đến Bangkok vô cớ vu khống hoàng huynh mình, trách hoàng tử này liên hệ với người Việt để lên trị vì ở Oudong. Hoàng tử Ang Duong ngay lập tức bị đưa về kinh đô Xiêm và bị cấm trở về Kampuchia. Năm 1837, hoàng tử Ang Im tới Oudong, ngài bị giải về Phnom Penh, rồi Sài Gòn, ngài gặp tướng Truong Kun tại đó. Vị tướng này áp giải ngài ra Huế và bị giám sát ở đó.
En vue de faire du Cambodge entier un pays vassal de l’Annam, Truong Kun donna l’ordre d’arrêter les quatre princesses khmères et de les envoyer à la cour de Hué. Arrivée à Long Ho, la princesse Ang Pên, âgée de 32 ans, fut tuée sur l’ordre du général Duong Doc sous le prétexte qu’elle était pro-siamoise, sa mère résidant à Bangkok.
Để biến toàn bộ Campuchia thành nước lệ thuộc An Nam, Truong Kun đã ra lệnh bắt bốn công chúa Khmer và đưa họ về triều đình Huế. Về tới Long Hồ, công chúa Ang Pên, 32 tuổi, bị giết theo lệnh của tướng Duong Doc với lý do bà theo thân Xiêm, mẹ bà đang sống ở Bangkok.
En 1841, débarrassé des dirigeants khmers, Truong Kun tenta de se rendre maître du royaume; il commença à détruire les pagodes et à maltraiter la population. Sentant disparaître leur race, les Cambodgiens se soulevèrent partout dans le pays et combattirent les occupants vietnamiens. Ces derniers se réfugièrent en deux endroits, à Pursat et à Phnom Penh. Les Khmers firent alors appel au roi du Siam afin que le prince Ang Duong revienne au Cambodge prendre le gouvernement du pays. En 1842, sur l’ordre du roi Rama III,14 le prince khmer accompagné du général siamois Pasdin Dêchea rentra au Cambodge. A Pursat, l’armée vietnamienne n’osa pas engager le combat et se soumit; Ang Duong lui ordonna de rentrer dans son pays. Le roi d’Annam Thieu Tri, constatant que la situation était très délicate, chercha à calmer les troubles au Cambodge, en demandant à un général de conduire la famille royale khmère jusqu’à Phnom Penh. Cependant il était trop tard; les Khmers ne se laissèrent pas tromper à nouveau et les soulèvements se multiplièrent. Alors les princes et princesses khmers et les Vietnamiens furent obligés de se retirer dans la province de Moat Chrouk où le prince Ang Im 15 mourut en 1844. En 1843, le prince Ang Duong était reconnu comme roi par la population de la partie septentrionale du pays et la paix revint dans le Cambodge. La guerre reprendra en 1845. C’est pendant cette courte période d’accalmie que le roi Ang Duong chercha à rétablir les activités commerciales entre les Khmers et les Vietnamiens. Il demandait à la reine Ang Mei d’agir à sa place en tant que reine.
Năm 1841, loại bỏ xong các nhà lãnh đạo Khmer, Truong Kun cố gắng làm chủ vương quốc; ông bắt đầu phá hủy các ngôi chùa và ngược đãi dân chúng. Cảm thấy dân tộc mình bị nguy cấp, người Kampuchia nổi dậy khắp nơi trong cả nước và chiến đấu chống lại quân chiếm đóng Việt Nam. Quân Việt phải rút lui về hai khu vực, Pursat và Phnom Penh. Sau đó người Khmer thỉnh cầu vua Xiêm cho hoàng tử Ang Duong trở về Campuchia nắm quyền cai trị đất nước. Năm 1842, theo lệnh của vua Rama III[15], hoàng tử Khmer cùng tướng Xiêm Pasdin Dêchea trở về Kampuchia. Tại Pursat, quân đội Việt Nam không dám giao chiến và đầu hàng; Ang Duong ra lệnh cho họ rút về nước. Vua An Nam Thiệu Trị nhận thấy tình hình rất nan giải nên đã tìm cách xoa dịu các bất ổn ở Kampuchia khi cử một vị tướng đưa hoàng gia Khmer về Phnom Penh. Nhưng đã quá muộn; Người Khmer không để bị lừa nữa và các cuộc nổi dậy tiếp tục gia tăng. Sau đó, các hoàng tử, công chúa Khmer và người Việt buộc phải rút về tỉnh Moat Chrouk, Hoàng tử Ang Im[16] qua đời ở đó vào năm 1844. Năm 1843, Hoàng tử Ang Duong được người dân miền bắc đất nước công nhận là vua và hòa bình đã trở lại Campuchia. Chiến tranh lại tái diễn vào năm 1845. Trong thời gian tạm bình yên ngắn ngủi này, vua Ang Duong đã tìm cách tái lập các hoạt động thương mại giữa người Khmer và người Việt. Ngài đã yêu cầu Nữ vương Ang Mei hành động thay mình với vị thế của một Nữ vương.
2. Les trois documents
La Bibliothèque Nationale de Bangkok a classé les trois documents dans l’ordre suivant:
1°- le message de la reine mère au roi Ang Duong;
2°- le message de la reine Ang Mei au roi Ang Duong;
3°- la traduction de la lettre de deux généraux vietnamiens au gouverneur de la province de Baphnom.
2. Ba tài liệu
Thư viện Quốc gia Bangkok đã phân loại ba tài liệu theo thứ tự sau:
1°- Thơ của Thái hậu gửi vua Ang Dương;
2°- Thơ của Nữ vương Ang Mei gửi vua Ang Duong;
3°- Bản dịch lá thơ của hai vị tướng Việt gửi cho tổng đốc tỉnh Baphnom.
Il semble plus logique de placer d’abord le message de la reine Ang Mei, suivi de celui de la reine mère. En effet, les lignes 1 à 6 du message de la reine nous laissent comprendre que la lettre du roi Ang Duong lui est adressée en qualité de reine. En plus, un grand cachet portant au centre une image du temple d’Angkor Vat est apposé à la fin de sa lettre. Par contre, le message le plus important est celui de la reine mère; ce n’est qu’une simple lettre d’une mère à son fils, mais c’est le moyen le plus efficace pour toucher profondément le roi Ang Duong.
Có vẻ hợp lý hơn khi đặt lá thơ của Nữ vương Ang Mei lên trước tiên, sau đó là lá thơ của Thái hậu. Thật vậy, các dòng từ 1 đến 6 trong lá thơ của Nữ vương giúp chúng ta hiểu rằng lá thư của Vua Ang Duong được gửi cho bà với tư cách là Nữ vương. Ngoài ra, một cái triện lớn có hình ảnh ngôi đền Angkor Wat ở giữa được đóng ở cuối lá thư của ông. Mặt khác, lá thơ quan trọng nhất là của Thái hậu; Đây chỉ là một bức thư giản dị của người mẹ gửi cho con trai, nhưng lại là phương cách hiệu quả nhất để tác động sâu sắc của vua Ang Dương.
Voici les trois messages: Đây là ba lá thơ
Texte translittéré du message de la reine Ang Mei – La-tinh hoá lá thơ của Nữ vương Ang Mei
(…)
Traduction du message de la reine Ang Mei – Bản dịch lá thơ của Nữ vương Ang Mei
(1) Auguste message45 royal de Samtec l’auguste nièce,46 reine suprême des reines, auguste et suprême Protectrice, auguste et suprême Pureté et de Samtec les deux augustes nièces.47 Nous nous prosternons (2) devant Samtec l’auguste Isora,48 grand roi des rois, auguste et suprême Protecteur, auguste et suprême Pureté qui est notre oncle paternel. Nous nous permettons de nous informer de votre santé (3), nous craignons que vous ne contractiez toujours des maladies49. Ou bien vous êtes en bonne santé, très bien et heureux, grâce aux puissances et mérites de l’auguste fortuné (4) Triple Joyau;50 alors nous, vos nièces,51 nous en inquiétons et tous les jours nous pensons constamment à vous (5) qui détenez le pouvoir royal52 selon l’auguste tradition royale d’autrefois, en respectant la lignée royale, comme vous le savez. En outre (6), parce que le sixième jour de la lune croissante, du mois de Bisakha53, en cette année-ci, il y a un messager qui a un nom54, qui a apporté l’auguste message55 royal adressé à nous trois. Nous, vos nièces (7) l’avons reçu avec déférence, nous l’avons lu et avons pris connaissance de toutes choses. Dans le message, vous56 avez dit que les mandarins vietnamiens57 ne voulaient pas la paix.
Lá thơ hoàng gia hồi tháng Tám[17] của Samtec, cháu gái cao quý[18],46 Nữ vương tối cao của các nữ vương, Đấng bảo hộ cao quý và tối cao, Sự thuần khiết cao quý và tối cao cùng với hai Hoàng tôn nữ cao quý của Samtec. Chúng thần phủ phục trước Samtec Isora[19] cao quý, Đại vương của các vị vương, Đấng bảo hộ cao quý và tối cao, bậc chú của chúng thần. Chúng thần xin phép được vấn ana ngài, chúng thần lo rằng ngài vẫn còn mắc bịnh[20]. Hoặc là ngài khỏe mạnh, an bình và hạnh phúc, nhờ ơn sức mạnh và công đức của Tam Bảo[21]cao quý và may mắn; vậy nên chúng thần, các Hoàng tôn nữ[22] của ngài, lo lắng cho ngài và hằng ngày chúng thần luôn nghĩ đến ngài, người nắm giữ quyền lực hoàng gia theo truyền thống hoàng gia cao quý từ xa xưa, tôn trọng dòng dõi hoàng tộc[23], như ngài đã biết. Với lại, vào ngày thứ sáu thượng huyền, tháng Bisakha[24], ngay trong năm nay, có một sứ giả hữu danh[25], đã mang lá thơ hoàng gia cao quý gửi cho ba chúng thần. Chúng thần, các cháu gái của ngài, kính cẩn đón nhận, chúng thần đã đọc và hiểu mọi điều. Trong thư, ngài[26] có nói rằng các quan viên Việt[27] không muốn hòa bình.
(8) C’est ainsi que ces derniers ont gardé à vue les mandarins khmers, qu’ils faisaient construire des citadelles pour empêcher les Khmers de communiquer entre eux, car les affaires (entre les deux pays) ne sont pas encore réglées. (9) Chaque camp possède ses citadelles, ses forces armées. On fait monter la garde. Les deux camps font de même. Dans votre auguste message, vous (10) souhaitez que les activités commerciales entre les peuples reprennent dans de bonnes conditions comme dans le passé, sous les règnes de l’auguste grand-père et (11) de l’auguste père58. Mais vous redoutez encore les dispositions défavorables (12) du roi d’Annam59 et des grands mandarins vietnamiens. En ce qui concerne votre message60, nous vos nièces, avons chargé l’oncle61 Chaovea, l’oncle Samtec 62 et tous les mandarins de le transmettre (13) à Ong Doc Po 63 et à Ong Ton Phou, les responsables et aux mandarins de la citadelle de Moat Chrouk afin qu’ils en soient informés.
Chính vì vậy mà các quan lại này đã giám sát chặt chẽ các quan lại Khmer, bắt họ xây dựng thành lũy để ngăn trở người Khmer liên lạc với nhau, vì các vấn đề (giữa hai nước) vẫn chưa được giải quyết. Mỗi bên đều có thành lũy, quân đội riêng. Việc canh phòng được tiến hành. Cả hai bên đều hành động như vậy. Trong lá thơ hoàng gia cao quý của Người, Người mong muốn rằng các hoạt động thương mại giữa các dân tộc được phục hồi trong điều kiện thuận lợi như trước đây, dưới triều Thái thượng hoàng cao quý và phụ hoàng cao quý[28]. Nhưng Người vẫn quan ngại về những khuynh hướng bất lợi (12) của vua An Nam[29]và các đại quan của Việt Nam. Về lá thơ[30] của ngài, chúng tôi, các Hoàng tôn nữ của ngài, đã chỉ thị cho Bác[31] Chaovea, Bác Samtec[32] cùng tất cả các vị quan chuyển nó (13) cho Ong Doc Po[33] và Ong Ton Phou, các vị đương chức và các quan lại ở thành Moat Chrouk để họ được tường tỏ.
Nous avons prié (14) les responsables vietnamiens pour que les Khmers et les Vietnamiens puissent refaire du commerce ensemble. Alors le quatorzième jour de la lune décroissante, du mois de Bisakha 64, Ong Doc Po est parti (15) à la cour de Hué65. Le neuvième jour de la lune croissante du mois d’Asoch de cette année66, Ong Doc Po est rentré à la citadelle de Moat Chrouk. Il nous a parlé (16) de votre affaire en ces termes:
Chúng thần khẩn cầu với các đương chức Việt cho phép người Khmer và người Việt có thể buôn bán lại với nhau. Sau đó, vào ngày thứ mười bốn tháng Bisakha[34] hạ huyền, Ong Doc Po hồi kinh về Huế[35]. Vào ngày thứ chín của tháng Asoch thượng huyển năm nay[36], Ong Doc Po về tới thành Moat Chrouk. Ông đã kể cho chúng thần về các vấn đề của ngài như sau:
“Autrefois, les Khmers et les Vietnamiens faisaient du commerce ensemble et sans dispute. (17) Lorsque les Khmers se sont soulevés, le commerce entre les deux peuples a été interrompu, il y a (de cela) plus de trois ans. Les Vietnamiens n’osent plus transporter de marchandises pour (18) les vendre aux Khmers. Ces derniers n’osent pas également transporter leurs marchandises pour les vendre aux Vietnamiens. Chez les Khmers, le sel, les noix d’arec et toutes sortes de marchandises font terriblement défaut. (19) Les Khmers commercent avec les Vietnamiens à la sauvette, dans la forêt. Cela ne dure guère et lorsque les Khmers rencontrent des gardes67, ceux-ci les arrtent et les punissent. Maintenant, (20) le roi d’Annam, par compassion envers le peuple khmer, parle ainsi:” Si les Khmers souhaitent reprendre le commerce avec les Vietnamiens (21) qu’ils descendent jusqu’à Cong Hoa68. Dans cette ville dépendante de Prei Nokor, les marchandises sont nombreuses et on peut aisément faire du commerce”.
“Ngày trước, người Khmer và người Việt mua bán với nhau mà không có tranh chấp. Khi người Khmer nổi dậy, việc buôn bán giữa hai dân tộc đã bị đứt đoạn từ hơn ba năm. Người Việt không còn dám vận chuyển hàng hóa để bán cho người Khmer. Người Khmer cũng không dám vận chuyển hàng hóa của mình để bán cho người Việt. Về phía người Khmer, muối, hạt cau và mọi loại hàng hóa đều hết sức thiếu thốn. Thương nhân Khmer lén lút buôn bán với người Việt trong rừng. Điều này không kéo dài được lâu và khi người Khmer gặp phải lính canh[37], họ bị lính bắt giữ và trừng phạt. Nay, vua An Nam, vì thương xót người dân Khmer, phán như sau: “Nếu người Khmer muốn nối lại buôn bán với gười Việt thì hãy xuống tận Cong Hoa[38]. Ở thị trấn thuộc Prei Nokor này hàng hóa rất nhiều và có thể dễ dàng buôn bán.”.
Maintenant, Ong Doc Po, le grand chef (22) ainsi que tous les mandarins de la citadelle de Prei Nokor acceptent que les Cambodgiens descendent s’installer à Cong Hao, à Ta Ong en face de la province de Romduol pour faire du commerce avec (23) les Vietnamiens. Ong Doc Po, le grand responsable de Prei Nokor a ordonné à ses troupes de s’installer à Peam Svay Mi, pour assurer la sécurité des Vietnamiens afin qu’ils puissent venir librement faire du commerce (24) avec les Khmers. De cette façon, les deux peuples seront heureux. Ils ne seront ni arrêtés, ni inquiets. (25)
Bấy giờ, Ong Doc Po, một vị đại quan, cùng tất cả quan viên trong thành Prei Nokor chấp nhận cho người Campuchia xuống cư trú ở Cong Hao, ở Ta Ong[39], đối diện với tỉnh Romduol[40] để buôn bán với người Việt. Ong Doc Po, người đứng đầu Prei Nokor, ra lệnh cho quân sỹ của mình đóng tại Peam Svay Mi[41] đảm bảo an ninh cho người Việt, giúp họ có thể tự do buôn bán với người Khmer. Nhờ đó, cả hai bên dân chúng sẽ vui mừng, họ sẽ không bị bắt bớ hay lo lắng.
Lorsque les Vietnamiens arrivent avec leurs marchandises, il ne faut plus les arrêter, il faut les laisser faire comme autrefois, si les Khmers veulent faire la paix avec eux. (26) Quant aux mandarins et citoyens khmers qui ont commis des erreurs dans le passé, (27) ils seront tous grâciés par le roi d’Annam afin que tout le monde soit heureux. Nous prions Samtec l’auguste oncle d’envoyer un message informant tous les gouverneurs de provinces (28) ainsi que les chefs de village que, lorsque les Vietnamiens arrivent avec leurs marchandises pour les revendre aux Khmers, il ne faut plus les arrêter, (29) il faut les traiter comme autrefois et que les Khmers peuvent descendre (à Ta Ong) pour faire du commerce; qu’ils ne soient plus inquiets.
Khi người Việt mang hàng hóa đến, không được ngăn chận họ nữa, phải để họ làm ăn như trước nếu người Khmer muốn làm hòa với họ. Đối với các quan lại và dân chúng Khmer đã phạm lỗi lầm trong quá khứ thì đều được vua An Nam ân xá để mọi người đều được an vui. Chúng thần kính mong Samtec, hoàng thúc cao quý, ban chiếu thư tới tất cả các tổng đốc các tỉnh cũng như các trưởng làng rằng, khi người Việt Nam mang hàng hóa đến để bán cho người Khmer như trước, các vị đó không được ngăn cấm họ nữa, họ phải được đối xử như trước và người Khmer có thể xuống (Ta Ong) để buôn bán; rằng họ không còn phải lo lắng nữa.
Nous souhaitons que (30) votre décision quelle qu’elle soit puisse nous rendre heureuses toutes les trois, ainsi que tous les mandarins et tout le peuple. (31) (Cela ne sera possible) , que grâce à votre intelligence, votre bienveillance et à votre décision conforme à la tradition suivie depuis les règnes de Samtec l’auguste grand-père et l’auguste père jusqu’à nos jours. (32)
Chúng thần mong rằng bất kể quyết định của đức Vua là gì thì sẽ mang lại hạnh phúc cho cả ba chúng thần, cũng như cho tất cả quan viên và mọi người đều hạnh phúc. Điều này (chỉ có thể thực hiện được) nhờ vào sự anh minh, đức nhân từ của đức Vua, và quyết định của Người phù hợp với truyền thống đã được tuân theo từ thời trị vì của đức Samtec tiên tổ cao quý, và phụ hoàng cao quý cho đến ngày nay.
(32) Aujourd’hui je charge l’Oknha Moha Montrei nommé Kê, l’Oknha Bâr Neayok Srei de vous apporter cet auguste message royal. Donc (33) lorsque ce message arrivera, après en avoir pris connaissance, quelle que soit votre décision, nous vous prions de la confier (34) aux augustes messagers afin que nous la connaissions.
Auguste message royal fait le cinquième jour de la lune décroissante du mois de Migasira, (35) en l’année du Lièvre cinquième de la décade.
Un grand cachet.
Hôm nay, thần truyền cho Oknha Moha Montrei tên là Kê, Oknha Bâr Neayok Srei mang bức thơ hoàng gia cao quý này dâng lên đức Vua. Vì vậy, khi lá thơ này đến nơi, sau khi đã thẩm, bất kể quyết định của Người ra sao, chúng thần kính mong Người giao lại cho các sứ giả khả kính để chúng tôi được tường.
Thơ hoàng gia cao quý được viết vào ngày thứ năm hạ huyềng tháng Migasira, năm Mẹo, năm thứ năm của thập kỷ.
(Đại triện)
La-tinh hoá lá thơ của Thái hậu.
(…)
Bản dịch lá thơ của Thái hậu.
-(1) Message de Samtec l’auguste reine mère 41 adressé au prince Isora, roi des grands rois, l’auguste et suprême Protecteur, l’auguste et suprême Pureté. (2) De crainte que des maladies ne viennent toujours vous causer des ennuis;42 grâce aux puissances et mérites de (3) l’auguste et fortuné Triple Joyau, aux qualités et mérites des dons et des Sil43 que j’ai accomplis, aux qualités et mérites de tous les Tévoda, gardiens de l’Univers, je souhaite que vous soyez heureux, que vos voeux se réalisent toujours heureusement44 afin que (4) vous puissiez entretenir désormais et pendant très longtemps45 l’auguste religion bouddhique. En outre, le sixième jour de la lune croissante du mois de Bisakha de cette année-ci,46 (5) j’ai reçu47 un serviteur qui a un nom,46 qui m’a48 apporté votre message48. Je l’ai lu49 et j’ai pris connaissance de la totalité (6) de son contenu. Quant à la teneur de la lettre, il était question de votre intention de voir les peuples khmer et vietnamiens reprendre leurs échanges commerciaux (7) dans de meilleures conditions, comme sous le règne de Samtec l’auguste grand-père50 et celui de l’auguste et excellent père, depuis autrefois jusqu’à nos jours.
Lá thơ của Thái hậu cao quý[42] gửi hoàng tử Isora, vua của các vị vua vĩ đại, Người bảo vệ cao quý và tối cao, Đấng thanh khiết cao quý và tối cao. Sợ rằng bịnh tật luôn luôn đến gây phiền phức[43] cho Ngài; Ân điển của quyền năng và công đức của Tam Bảo cao quý và may mắn, nhờ vào phẩm chất và công đức của việc cúng dường và Sil[44] mà ta đã hoàn thành, nhờ vào phẩm chất và công đức của tất cả các chư thần Tévoda, những vị bảo vệ Vũ trụ, ta cầu mong Ngài luôn được hạnh phúc[45], rằng mọi ước nguyện của Ngài luôn đạt thành tựu tốt đẹp để Ngài có thể duy trì Phật giáo cao quý từ nay về sau và đặng lâu dài[46]. Hơn nữa, vào ngày thứ sáu thượng huyền tháng Bisakha năm nay[47], ta có tiếp[48] một người hầu hữu danh[49], người này mang đến cho ta[50] lá thơ[51] của Ngài. Ta đã đọc[52] và nắm rõ toàn bộ nội dung lá thơ. Còn về nội dung lá thơ, việc ngài chủ tâm muốn thấy dân chúng Khmer và Việt tái lập việc giao thương trong những điều kiện tốt nhứt, giống như dưới triều đại của Samtec, đức tiên tổ[53] cao quý, và đức Thượng hoàng cao quý và tài ba, từ xưa cho tới nay.
Mais vous (8) redoutiez les avis défavorables du roi d’Annam 52, auguste Maître (9) et de grands mandarins vietnamiens. En ce qui concerne votre message, les trois Samtec augustes nièces avaient chargé l’Anak Chaovea 53, l’Anak Samtec Chao Ponhea ainsi que tous les mandarins de mettre au courant du message les grands chefs vietnamiens Doc Po et Ton Phou (10) ainsi que les autres mandarins à la citadelle de Moat Chrouk, afin qu’ils sachent la vérité, qui était votre souhait de voir le peuple khmer commercer de nouveau avec le peuple vietnamien.
Nhưng ngài quan ngại những ý kiến bất lợi của vua An Nam[54], vị Chúa cao quý, và các đại quan Việt. Về phần lá thơ của ngài, ba vị Hoàng tôn nữ cao quý của Samtec đã giao cho Anak Chaovea[55], Anak Samtec Chao Ponhea cùng tất cả các quan lại báo cho các đại quan Việt, Doc Po và Ton Phou, cùng các quan viên khác tại thành Moat Chrouk, để họ hiểu rõ sự thật rằng Ngài mong muốn thấy dân chúng Khmer giao thương lại dân chúng Việt.
Le quatorzième jour de la lune décroissante, du mois de Bisakha, 55 le général Doc Po partit à la cour de Hué. Il fut de retour à la citadelle de Moat Chrouk le neuvième jour de la lune croissante du mois d‘Asoch de cette année-ci.56 (13) Il a informé votre mère et vos trois nièces de cette affaire. J’ai constaté (14) que le roi d’Annam daignait (15) laisser les Vietnamiens venir faire du commerce avec le peuple khmer dans de bonnes conditions comme dit (16) l’auguste message que vous ont adressé Samtec les augustes nièces. Mais j’ai de grands soucis pour vous qui venez (17) gouverner le peuple et le pays khmers57, je souhaite que vous fassiez en sorte que le Cambodge redevienne ce qu’il était dans le passé, sous les règnes de Samtec l’auguste grand-père et de Samtec (18) l’auguste et excellent père.
Vào ngày mười bốn hạ huyền, tháng Bisakha[56], tướng Doc Po thượng kinh về Huế. Ông trở về thành Moat Chrouk vào ngày thứ chín thượng huyền tháng Asoch năm nay[57]. Ông báo cho Mẫu hậu của Ngài và ba vị Quận chúa về việc này. Tôi nhận thấy vua An Nam đã hạ cố cho phép người Việt đến giao thương với dân chúng Khmer trong điều kiện thuận lợi như lá thơ cao quý mà Samtec đã gửi cho các Quận chúa cao quý. Nhưng tôi rất lo cho Ngài, Đức vua sẽ lãnh đạo chúng dân và đất nước Khmer[58], tôi mong rằng Ngài sẽ làm cho Campuchia được lại như xưa, như dưới triều đại của Samtec, Đức tiên tổ quý, và Samtec Đức phụ hoàng cao quý và tài ba.
C’est la condition conduisant à la paix. Tous les mandarins, le peuple, les maris séparés (19) de leurs femmes et de leurs enfants pourraient alors être réunis à nouveau. Votre mère (20) et Samtec votre auguste prince 58 pourraient vous revoir. Si 58 vous agissez autrement, moi qui suis ignorante (21), je crains que dorénavant Samtec votre auguste prince et moi ne soyons encore malheureux, que tous les mandarins (22) et le peuple ne soient encore séparés et accablés de tristesse. Tout cela dépendra de votre vigilance (23), vous qui cherchez depuis toujours à rendre tout le monde heureux. Si 59 vous gouverniez (ainsi), votre peuple khmer pourrait redevenir prospère, glorieux (24) parce que59 vous êtes un grand roi régnant sur un pays,60 mais votre mère et votre fils qui habitent loin61 de vous seraient accablés de malheur, de pauvreté, de faim, de toutes sortes de tristesses.
Đây là điều kiện dẫn đến hòa bình. Tất cả quan lại, dân chúng, những người chồng bị chia ly với vợ và các con của mình đều có thể được tái đoàn tụ. Mẫu hậu của ngài và Samtec, vị hoàng tử[59] cao quý của Ngài, có thể gặp lại Ngài. Nếu Ngài hành động khác đi, tôi, một kẻ ngu muội, e rằng từ nay Samtec, vị hoàng tử cao quý của Ngài, và thần lại phải chịu bất hạnh, rằng tất cả quan lại và chúng dân sẽ tiếp tục bị chia ly, chìm trong u buồn. Mọi việc sẽ phụ thuộc vào sự tỉnh táo của Ngài, Ngài luôn tìm cách mang lại hạnh phúc cho mọi con dân. Nếu[60] ngài cai trị theo cách đó, chúng dân Khmer của Ngài có thể lại đặng sự thạnh vượng, sự vinh quang, bởi vì[61] ngài là một vị vua vĩ đại cai trị một đất nước[62] nhưng mẹ ngài và con trai ngài, họ sống xa ngài[63], sẽ gánh chịu sự bất hạnh, nghèo, đói và mọi loại buồn đau.
(25) Dans l’avenir, tous les mandarins et le peuple diront que vous étiez un grand roi (26) d’un royaume, mais que vous avez abandonné votre mère et votre fils dans l’autre partie du pays 61 parce que vous avez eu peur du Chao Khun62. Dieu vous punira. Dans votre message, (27) vous m’avez informé de ce que le Chao Khun n’avait aucune intention de diviser l’auguste grand royaume en deux. Vous étiez venu gouverner (28) le peuple du royaume khmer depuis l’année du Rat 62 jusqu’à l’année du Lièvre, ce qui fait en tout quatre ans. Si vous aviez des soupçons sur quelque affaire du royaume que ce soit, vous (29) auriez pu envoyer un auguste message au responsable de la citadelle de Moat Chrouk, le général Doc Po qui l’aurait transmis ensuite (30) au roi d’Annam, mais jamais vous ne l’avez fait afin que je sois contente. Dans votre message, (27) vous m’avez informé de ce que le Chao Khun n’avait aucune intention de diviser l’auguste grand royaume en deux. Vous étiez venu gouverner (28) le peuple du royaume khmer depuis l’année du Rat jusqu’à l’année du Lièvre, ce qui fait en tout quatre ans. Si vous aviez des soupçons sur quelque affaire du royaume que ce soit, vous (29) auriez pu envoyer un auguste message au responsable de la citadelle de Moat Chrouk, le général Doc Po qui l’aurait transmis ensuite (30) au roi d’Annam, mais jamais vous ne l’avez fait afin que je sois contente.
Trong tương lai, tất cả quan lại và dân chúng sẽ nói rằng Ngài từng là một vị vua vĩ đại của một vương quốc, nhưng Ngài đã bỏ rơi mẹ mình và con trai mình ở một phần khác của đất nước[64] vì sợ Chao Khun[65]. Thần linh sẽ trừng phạt Ngài. Trong thơ của Đức vua, Ngài đã báo với ta rằng Chao Khun không hề có ý định chia cắt vương quốc cao quý vĩ đại này làm hai. Ngài đã lên cai trị thần dân vương quốc Khmer từ năm Chuột[66] đến năm Thỏ[67], tổng cộng bốn năm. Nếu Đức vua có nghi ngờ gì về bất kỳ vấn đề nào của vương quốc, Đức vua có thể đã gửi một lá thơ cao quý đến vị chức trách trấn giữ thành Moat Chrouk, tướng Doc Po, tướng quân sẽ dâng thơ lên vua An Nam. Nhưng ngài không bao giờ làm như vậy để ta thoả lòng.
Aujourd’hui, je charge l’Oknha Bâ Neayok (31) Srei de vous apporter l’auguste message. Lorsque le message sera arrivé, une fois entièrement lu, quelle que soit votre décision, (32) confiez votre réponse aux augustes messagers et qu’ils rentrent tout de suite. Alors comme preuve je vous enverrai l’étui134 du plat dans lequel (33) vous mangiez autrefois.
Auguste message royal fait le cinquième jour de la lune décroissante, du mois de Migasira, en l’année du Lièvre cinquième de la décade.135
Hôm nay, ta giao Oknha Bâ Neayok Srei mang đến cho Đức vua lá thơ cao quý. Khi thơ tới, một khi đọc xong, bất kể quyết định của Đức vua là gì, hãy giao thơ phúc đáp của ngài cho các sứ giả cao quý để họ lập tức trở về. Để làm ám hiệu, ta gởi cho Đức vua chiếc túi đựng[68] món ăn mà ngài từng ngự trước đây.
Lá thơ hoàng gia cao quý được lập vào ngày thứ năm hạ huyền, tháng Migasira, năm Thỏ, năm thứ năm của thập kỷ[69].
Les deux lettres sont datées de 1843 AD, il y a presque un siècle et demi. La syntaxe utilisée ne présente aucune difficulté particulières. Cependant il y a quelques passages qui ne sont pas simples à comprendre, à cause de l’absence des signes de ponctuation. A cela, on peut ajouter que le style n’est pas très élégant car il s’agit, dans ces lettres, de la langue parlée.
En ce qui concerne l’orthographe des mots on peut faire les remarques suivantes:
Hai lá thơ này được viết vào năm 1843 CN, cách đây gần một thế kỷ rưỡi. Cú pháp được sử dụng không gây khó khăn gì đặc biệt. Nhưng có một vài đoạn không dễ hiểu do thiếu dấu câu. Ngoài ra, chúng ta có thể nói thêm là phong cách hành văn không được tao nhã cho lắm vì trong mấy lá thơ này là phong cách ngôn ngữ nói.
Liên quan tới chánh tả của các từ, chúng ta có thể có nhữ lưu ý sau:
- L’emploi du signe voyelle ឺ pour les signes voyelles. – Dùng nguyên âm ឺ thay cho các nguyên âm ី ិ ឺ.
Ex:វឺ vïl, បាន្ទឺង pân tïh, toem, អំព្យឺ ambïy.
- L’emploi de ត pour ដ qui est pourtant employé par le scripteur pour noter le mot បរមនាដ្ធ parama nâtha. Dùng ត thay cho ដ , thế nhưng người viết lại dùng để ghi từ បរមនាដ្ធ parama nâtha.
- Comme dans le Vieux Khmer, le signe ្ង est utilisé pour noter la voyelle indépendante r. Trong chữ Khmer cổ, ký tự ្ង được dùng để ghi nguyên âm độc lập r.
Ex: ហ្ងាទ្យៃ hârdaiy.
- L’abus du redoublement de consonnes. Lạm dụng việc nhân đôi phụ âm.
Ex: សំត្តេ័ច samttec, ជ្ជា jjâ, ថ្ថា ththà, ទ្ទៅ ddau.
- Une syllabe brève est reconnaissable par le signe dans le premier message et
par dans le second. Một âm tiết ngắn có thể nhận ra bằng ký hiệu trong lá thơ đầu và bằng ký hiệu trong lá thơ thứ hai
Ex: mât jrük, samgâl, samttec, grubb.
Rappelons que le Cambodge, au moment où il y eut cet échange de messages, était pratiquement coupé en deux: la partie située au nord de Phnom Penh était sous l’autorité du roi Ang Duong soutenu par le Siam et la partie méridionale était sous la coupe des vietnamiens puisque la reine Ang Mei n’avait en fait aucun pouvoir. Le contact entre les deux familles royales semblait très difficile, à tel point que ni la reine mère, ni la reine Ang Mei n’osèrent mettre dans leur lettre respective le nom du messager d’Ang Duong.
Chúng ta cần nhớ là Kampuchia, vào thời điểm trao đổi thơ từ này, thực tế bị chia cắt làm hai: phần nằm ở phía bắc Phnom Penh là dưới quyền cai trị của vua Ang Duong được Xiêm ủng hộ, và phần phía nam thì lệ thuộc người Việt vì Nữ Hoàng Ang Mei không có một quyền hành gì. Sự liên lạc giữa hai gia đình hoàng gia dường như rất khó khăn, tới mức cả Thái hậu lẫn Nữ chúa Ang Mei không dám ghi tên vị sứ giả của Ang Duong trong thơ của mình.
Il y avait donc un climat de méfiance qui régnait sur les deux parties, mais pourtant la reine mère souhaitait que son fils prît contact avec les Vietnamiens et la reine Ang Mei n’éprouvait ni jalousie, ni haine pour le roi Ang Duong. Dans sa lettre, la reine priait son oncle de bien réfléchir sur les relations entre le Vietnam et le Cambodge, afin d’éviter des conséquences malheureuses, car elle et ses deux sœurs se trouvaient dans une situation très délicate. Il importe de rappeler qu’en 1837, une de ses sœurs, la princesse Pèn fut assassinée sur l’ordre du général vietnamien Duong Doc, sous prétexte qu’elle était pro-siamoise.
Một bầu không khí ngờ vực trùm lên cả hai bên, nhưng dù sao thì Thái hậu vẫn mong muốn con trai mình tiếp xúc với người Việt và Nữ hoàng Ang Mei không cảm thấy chút ghen tị hay căm ghét nào đối với vua Ang Duong. Trong thơ của mình, Nữ hoàng khẩn cầu hoàng thúc của mình suy nghĩ kỹ về mối quan hệ giữa Việt Nam và Kampuchia, để tránh những hậu quả đáng tiếc, bởi vì bà và hai hoàng tỷ của mình đang ở trong tình thế rất khó xử. Cần nhắc lại là vào năm 1837, một trong các hoàng tỷ của bà, công chúa Pèn đã bị sát hại theo lệnh của viên tướng Việt Duong Doc với lý do bà ủng hộ người Xiêm.
On sait que le roi Ang Duong se trouvait sous le contrôle incessant des Siamois. Ces derniers l’avaient puni injustement par deux fois: en 1835, il fut victime de la diffamation de son frère, le prince Im, égoiste, borné et avide de pouvoir et en 1837, au moment où ce dernier, à l’instigation d’un général vietnamien, quitta Battambang pour Phnom Penh, dans l’espoir de s’emparer du trône du Cambodge. Ainsi, on ne peut manquer d’admirer le courage du roi Ang Duong qui en 1843 prit l’initiative de se mettre en contact avec les Vietnamiens pour le bien-être du peuple khmer. Le message a disparu, mais son contenu ressort clairement des messages des deux reines. Le roi Ang Duong demandait que les Khmers et les Vietnamiens puissent faire du commerce ensemble comme s’il ne s’était rien passé, puisque cette activité existait toujours, mais dans la clandestinité.
Nên biết là vua Ang Duong nằm dưới sự kiểm soát liên tục của người Xiêm. Những người này đã hai lần trừng phạt bất công ông: vào năm 1835, ông là nạn nhân của sự vu khống của hoàng huynh mình, hoàng tử Im, một người ích kỷ, thiển cận và tham quyền lực, và vào năm 1837, khi vị này, theo sự xúi giục của một viên tướng Việt, rời Battambang về Phnom Penh, với hy vọng tiếm đoạt ngai vàng Kampuchia. Vì vậy, người ta không thể không ngưỡng mộ lòng dũng cảm của vua Ang Duong, vào năm 1843 vua đã có sáng kiến liên lạc với người Việt vì lợi ích của người dân Khmer. Lá thơ đã thất tán nhưng nội dung của nó vẫn thể hiện rõ ràng qua các lá thơ của hai Nữ chúa. Vua Ang Duong khẩn cầu cho người Khmer và người Việt Nam có thể buôn bán với nhau như không có chuyện gì xảy ra bởi lẻ hoạt động này vẫn tồn tại, mà là lén lút.
A cette époque, les deux peuples étaient obligés d’échanger leurs marchandises pour se procurer des produits de première nécessité et non pas pour s’enrichir. Acceuillant la décision de son oncle avec enthousiasme, la reine Ang Mei joua donc un rôle d’intermédiaire et envoya ses mandarins à Moat Chrouk. De là les généraux vietnamiens transmirent ensuite la proposition au roi Thieu Tri à Hué. Celui-ci accepta la demande du roi Ang Duong et il ordonna à ses généraux de prendre des dispositions nécessaires.
Vào thời đó, người dân hai bên buộc phải trao đổi hàng hóa để có được các nhu yếu phẩm chứ không phải để làm giàu. Nhiệt tình đón nhận quyết định của hoàng thúc mình, do đó Nữ chúa Ang Mei đóng vai trò trung gian và phái các quan lại của mình đến Moat Chrouk. Tiếp theo, các vị tướng Việt chuyển đề nghị lên vua Thiệu Trị ở Huế. Vi vua này chấp nhận sự khẩn cầu của vua Ang Duong và Ngài ra lệnh cho các tướng của mình thực hiện các quy định cần thiết.
Les Vietnamiens s’étaient retirés de Phnom Penh et s’étaient installés à Moat Chrouk à cause des révoltes de Cambodgiens de 1842, provoqués par les massacres, les tortures, les destructions de pagodes khmères ordonnés par les Vietnamiens eux-mêmes. Cependant, il est intéressant de voir leurs positions, un an après l’événement, à travers les échanges qui se firent entre les responsables de la citadelle de Moat Chrouk et la reine Ang Mei. Elles sont les suivantes:
Người Việt rút khỏi Phnom Penh và đồn trú ở Moat Chrouk do các cuộc nổi dậy của người Campuchia năm 1842, vốn gây ra do các vụ thảm sát, tra tấn, phá hủy chùa chiền Khmer do chính người Việt ra lịnh. Song, điều thú vị là xem xét lập trường của họ, một năm sau sự kiện, thông qua các cuộc trao đổi được tiến hành giữa các vị trấn thành Moat Chrouk với Nữ hoàng Ang Mei. Các trao đổi như sau:
- Le roi Thieu Tri donnait son accord pour le rétablissement des échanges commerciaux entre les deux pays sous prétexte de compassion envers le peuple khmer.
- Les activités commerciales avaient cessé par la faute des Khmers qui s’étaient soulevés contre les Vietnamiens.
- Maintenant, les mandarins et les gens du peuple qui avaient participé aux révoltes étaient tous grâciés.
- Pour que les Vietnamiens soient en sécurité et que le commerce se fasse dans de bonnes conditions, il était nécessaire d’installer une armée vietnamienne dans le village de Peam Svay Mi en face de la province de Romduol.
- Vua Thiệu Trị phán truyền về sự đồng ý của Ngài trong việc khôi phục các trao đổi thương mại giữa hai nước với lý do lòng trắc ẩn của vua đối với người dân Khmer.
- Các hoạt động thương mại bị ngừng trệ là do lỗi của người Khmer, họ đã nổi dậy chống lại người Việt.
- Nay, các viên quan và chúng dân đã tham gia các cuộc nổi dậy đều được ân xá.
- Để người Việt Nam được an toàn, và rằng, các hoạt động thương mại được diễn ra trong điều kiện tốt, cần phải bố trí quân đội Việt Nam tại làng Peam Svay Mi đối diện với tỉnh Romduol.
Il est évident que les ennemis n’ont jamais le même point de vue sur un même événement. Mais, sans aucun doute, les envahisseurs vietnamiens rejetaient toute la responsabilité sur les Khmers. Chaque fois qu’une occasion se présentait, ils ne manquaient pas de s’approprier une partie du territoire khmer. Le renforcement de leur armée à Peam Svay Mi n’était donc qu’un prétexte pour rendre légale leur occupation militaire.
Hiển nhiên là các kẻ thù của nhau không bao giờ có cùng quan điểm về một cùng sự kiện. Nhưng, chắc chắn rằng, những kẻ xâm lược Việt đã đổ hết trách nhiệm cho người Khmer. Mỗi khi có cơ hội, họ không từ bỏ việc chiếm hữu một phần lãnh thổ Khmer. Việc tăng cường quân đội của họ tại Peam Svay Mi chỉ là một cái cớ để hợp pháp hóa sự chiếm đóng quân sự của họ
Nous avons signalé plus haut que les deux messages n’ont pas la même valeur, pour la seule raison qu’une mère peut s’adresser plus librement à son enfant – quelle que soit la fonction ou le pouvoir de ce dernier – qu’une nièce à son oncle. Par conséquent, le second message présente beaucoup plus d’intérêt que le premier. De la ligne 1 à la ligne 16, le deuxième message donne autant de renseignements que le premier en entier. De la ligne 17 jusqu’à la fin, la reine mère, pleine de sagesse, donne à son fils des conseils appuyés d’arguments fort raisonnables pour décider de la politique extérieure du Cambodge avec ses deux pays voisins. La reine mère souhaite ardemment que son royaume et son peuple retrouvent la tranquillité. Elle évoque, en donnant des exemples vécus, tous les malheurs causés par le déchirement des familles ressentis par elle-même et par la population khmère toute entière et, pour que la paix règne dans son pays, elle propose à son fils de suivre l’exemple de son grand-père et de son père, qui maintenaient une entente parfaite aussi bien avec le Siam qu’avec l’Annam. Cette volonté est confirmée par la dernière partie de sa lettre – de la ligne 26 jusqu’à la ligne 30 -, protestation contre son fils qui aurait dû prendre contact avec l’Annam puisqu’il réside dans le territoire khmer depuis quatre ans et ce d’autant plus que le Siam n’a pas l’intention de partager le Cambodge.
Bên trên chúng tôi đã chỉ ra ở trên rằng hai lá thơ không có giá trị ngang nhau, vì lý do duy nhất là một người mẹ có thể nói chuyện thoải mái hơn với con trai mình – bất kể chức vụ hay quyền lực của người con đó so với một Hoàng tôn nữ với hoàng thúc của mình. Vì vậy, lá thơ thứ hai tỏ ra đáng quan tâm hơn bức thư thứ nhất. Từ dòng 1 đến dòng 16, lá thơ thứ hai đưa ra nhiều thông tin hơn toàn bộ lá thơ thứ nhứt. Từ dòng 17 đến hết, Thái hậu, đầy khôn khéo, đưa ra lời khuyên cho con trai mình dựa trên những lập luận rất hợp lý để quyết định chính sách đối ngoại của Kampuchia với hai lân bang. Thái hậu khao khát mong muốn vương quốc và thần dân của mình tìm lại được sự thanh bình. Bà gợi lại, bằng cách đưa những ví dụ đã trải qua, tất cả những bất hạnh do sự phân ly gia đình mà chính bà và toàn thể người dân Khmer phải cảm nhận, và, để hòa bình ngự trị trên đất nước mình, bà đề nghị con trai mình noi gương ông nội và cha mình, họ đã duy trì một sự thông hiểu hoàn hảo với cả Xiêm lẫn An Nam. Ý nguyện này được xác nhận ở phần cuối lá thơ của bà – từ dòng 26 đến dòng 30, phản đối con trai mình, lẽ ra ông nên tiếp xúc với An Nam vì ông đã ngự trên lãnh thổ Khmer từ bốn năm nay và nhất là Xiêm không có ý định phân chia Kampuchia với An Nam.
Rappelons enfin que la reine mère et les autres princesses étaient sous l’autorité vietnamienne. Elle était très courageuse d’avoir choisi une politique qui pouvait préserver l’unité du royaume mais qui ne plaisait ni aux Vietnamiens, ni au prince Ang Im. Celui-ci, toujours égoïste, pendant sa captivité à Moat Chrouk en 1842, demanda aux Vietnamiens que la partie du Cambodge au Sud de Phnom Penh lui soit attribuée et que la partie septentrionale soit confiée à Ang Duong.
Cuối cùng, chúng ta cần nhắc lại là Thái hậu và các vị Công chúa khác đều chịu sự kiểm soát của người Việt. Bà rất dũng cảm khi lựa chọn một chính sách có thể bảo tồn sự thống nhất của vương quốc nhưng lại không làm hài lòng cả người Việt lẫn hoàng tử Ang Im. Vị này, luôn ích kỷ, trong thời gian bị giữ ở Moat Chrouk năm 1842, ông khẩn cầu người Việt giao phần đất Kampuchia ở phía nam Phnom Penh cho mình và phần đất phía bắc cho Ang Duong.
Nous avons signalé plus haut que le message de la reine Ang Mei est marqué d’un sceau royal dont la description mérite d’être faite: il est rond et mesure 96 mm de diamètre. La partie périphérique est une couronne de 8 mm de large, limitée à l’extérieur par trois cercles et à l’intérieur par quatre cercles. La surface de la couronne est décorée de fleurons. La partie centrale est composée essentiellement d’un temple à trois tours et à l’intérieur de chaque tour il y a un personnage. Celui de la tour centrale tient dans sa main gauche un arc et dans sa main droite, semble-t-il, une flèche. Les deux autres qui sont de chaque côté, sont des orants; ils saluent le personnage central.
Bên trên chúng tôi có nói là lá thơ của Nữ hoàng Ang Mei có ấn triện hoàng gia, việc cái triện này đáng được mô tả: triện có hình tròn và đường kính là 96 mm. Ngoại vi là một vương miện rộng 8 mm, triện được khuôn bằng ba đường tròn bên ngoài và bốn đường tròn bên trong. Bề mặt của vương miện được trang trí bằng các họa tiết hoa. Phần giữa chủ yếu bao gồm một ngôi đền có ba tháp và bên trong mỗi tháp có một nhân vật. Nhân vật ở tháp trung tâm tay trái cầm một cây cung và tay phải dường như cầm một mũi tên. Hai nhân vật còn lại ở hai bên là những người đang cầu nguyện; họ suy tôn nhân vật trung tâm.
Pour les Khmers, ce temple à 3 tours ne saurait être que le temple d’Angkor Vat, qui apparaît ainsi dans ce sceau comme une manière de symbole du pays khmer, de la même façon qu’il est placé sur le drapeau national depuis son origine. Il est donc important d’observer que ce symbole existait en 1843, par conséquent avant que l’Occident ne découvre pour lui-même les monuments d’Angkor.
On ne sait pas sous quel règne a pu apparaître un tel sceau, mais on peut croire que la reine Ang Mei l’avait au moins reçu de son père, le roi Ang Chan qui prit le pouvoir en 1806.
Đối với người Khmer, ngôi đền với ba tháp này chỉ có thể là đền Angkor Wat, do đó, ngôi đền xuất hiện trong triện này như một loại biểu tượng của đất nước Khmer, giống như cách nó được đưa lên quốc kỳ kể từ khởi thuỷ. Điều quan trọng cần lưu ý là biểu tượng này tồn tại vào năm 1843, tức là trước khi chính người phương Tây khám phá ra các công trình Angkor.
Người ta không biết con dấu này xuất hiện dưới triều đại nào, nhưng ta có thể tin là Hoàng hậu Ang Mei đã nhận được nó ít nhất là từ cha bà, Vua Ang Chan, ngài lên cầm quyền vào năm 1806.
Texte translittéré de la troisième lettre
La-tinh hoá lá thơ thứ ba
(…)
Traduction de la lettre.
Bản dịch lá thơ
(1) Message du général164 Tê Tok et du général An Sach, de la province165 de Gia Dinh166, adressé au gouverneur de la province de Baphnom167, qui doit informer (ensuite) les Oknha Chao Ponhea168, les Oknha, les Ponhea, les Preah, (2) les chefs de villages, les citoyens des grands et petits villages afin qu’ils sachent que maintenant, (3) le roi d’Annam169 a ordonné à deux grands mandarins d’emmener les mandarins Banh Dâ kâ170 qui sont des mandarins de Hai Binh171, pour construire une citadelle172 au village de Cong Hoa173 à l’endroit du Prêk Svay Mi où (4) seront construits un marché et des maisons pour que les Vietnamiens puissent apporter des tissus en soie, des marchandises et les vendre aux Cambodgiens, afin qu’ils soient heureux comme autrefois. Sur ce sujet, (5) il y a quelque temps, la mère174 du prince Ang Duong, Ba Kvin Chuor175 ainsi que ses sœurs cadettes avaient informé176 les mandarins responsables de la province d’An Giang que les Khmers (6) souhaitaient la paix avec les Vietnamiens, que les deux peuples reprendraient leurs échanges commerciaux comme dans le passé.
Thơ của Tướng[70] Tê Tok và Tướng An Sach, trấn tỉnh[71] Gia Định[72], gửi cho tổng đốc tỉnh Baphnom[73], các vị này phải thông báo (tiếp đó) cho Oknha Chao Ponhea[74], các Oknha, các Ponhea, các Preah, (2) các trưởng làng, chúng dân ở các làng lớn và nhỏ để họ biết là từ nay, (3) vua An Nam[75] ban chiếu cho nhị vị đại quan truyền cho các quan Banh Dâ kâ[76], vốn là quan ở Hai Binh[77], xây một thành trì[78] ở làng Cong Hoa[79] vùng Prêk Svay Mi, nơi (đây 4) sẽ dựng một cái chợ và nhà cửa để người Việt có thể mang vải lụa, hàng hóa mà bán cho người Campuchia, để họ sẽ được an bình như xưa. Về vấn đề này, trước đó một thời gian, Mẫu hậu[80] của Hoàng tử Ang Duong, Ba Kvin Chuor [81]cũng như các hoàng muội của hoàng tử đã thông báo[82] cho các quan trấn nhiệm ở tỉnh An Giang là người Khmer (6) muốn có hòa bình với người Việt, rằng hai dân tộc sẽ nối lại các cuộc giao thương như trước kia.
(7) Grâce à sa vertu177, le roi d’Annam a daigné accepter que le commerce (entre le Cambodge et l’Annam) reprenne, que les combats cessent, que ceux qui ont servi autrefois l’armée soient (8) tous grâciés, qu’ils retournent dans leurs anciens villages, qu’ils soient exemptés de corvée, qu’ils ne payent plus d’impôts178. Ainsi, le général (responsable de la province) d’An Giang (9) et celui (de la province) de Gia Dinh, constatant qu’à Prêk Svay Mi, situé près de Gia Dinh, il y a beaucoup de soies et de marchandises, alors tous deux ont conduit (10) des mandarins et des soldats pour y construire une citadelle afin que les Vietnamiens soient en sécurité, que les Khmers puissent commercer en toute tranquillité, (11) pour empêcher les Vietnamiens d’opprimer les Khmers et interdire aux mandarins et soldats vietnamiens de poursuivre les combats, de massacrer encore le peuple khmer.
Nhờ ân đức[83] của Người, vua An Nam đã hạ cố chấp nhận cho sự buôn bán (giữa Kampuchia và An Nam) được phục hồi, chấm dứt chiến sự, và những kẻ trước đây đi quân dịch đều được ân xá, được trở về làng cũ của mình, được miễn đi sưu và không còn phải nộp thuế[84]. Như vậy, tướng (trấn giữ tỉnh) An Giang (9) và tướng (trấn giữ tỉnh) Gia Định xét thấy rằng tại Prêk Svay Mi, gần Gia Định, có rất nhiều lụa và hàng hóa, nên cả hai vị đã phái chư quan và binh lính đến xây một thành lũy để người Việt được an toàn, người Khmer có thể buôn bán trong yên ổn) nhằm ngăn chặn người Việt ức hiếp người Khmer và cấm các quan, binh Việt tiếp tục đánh nhau hay tàn sát dân Khmer.
A ce propos (12) (nous) avons entendu dire que la mère du prince Ang Duong, Ba Kvin Chuor et les princesses cadettes ont envoyé un message au roi Ang Duong pour l’informer afin qu’il avise par écrit tous (13) les gouverneurs de provinces, les chefs de tous les srok, les Oknha, les Chao Ponhea, les Oknha Ponhea, les Preah, les chefs de villages et les administrés afin qu’ils le sachent. (Nous) ne savons pas si le prince Ang Duong (14) a déjà envoyé ce message aux gouverneurs de toutes les provinces179, aux chefs de villages ou pas encore. (Nous) constatons que la population des villages voisins est déjà venue vendre des marchandises, que celle (15) des villages lointains est encore absente. C’est ainsi que nous deux, grands mandarins, avons fait rédiger ce message adressé à l’Oknha Chao Ponhea (16) afin qu’il informe toutes les provinces, que les Khmers viennent faire du commerce avec les Vietnamiens dans de bonnes conditions comme autrefois. Il n’y a (17) aucun problème.180 Que les Khmers ne craignent plus (les Vietnamiens). Parmi les mandarins et le peuple khmer, que ceux qui dans le passé ont commis des erreurs ne s’en inquiètent plus. (18) Ainsi-a-t-il été décidé, parce que (19) le roi d’Annam a daigné accepter que ceux-ci181 soient maintenant tous grâciés. (Le roi d’Annam) interdit de les arrêter, (20) de les tuer et de les terroriser. Il exempte (les Khmers) de corvée et d’impôt. Que tous les Oknha, les Chao Ponhea rassemblent tous les grands et petits mandarins (21) des différents villages qui dans les jours passés se sont sauvés par crainte (des Vietnamiens), qu’ils rentrent avec leurs familles dans leurs villages d’origine. (22) Ils seront heureux et ils pourront gagner leur vie. C’est dans ce but que nous propageons ces informations. S’ils ne croient pas (à nos bonnes intentions), nous prenons à témoins (23) les Tévoda182 de la terre et les Arakha183. Message pour donner des informations184, soyez confiants, écrivez-nous afin que nous soyons au courant.
Về điều này, (bọn ta) có nghe nói là mẫu hậu của hoàng tử Ang Duong, Ba Kvin Chuor và các công chúa thứ đã gửi một lá thơ tới vua Ang Duong để thông báo cho ngài để ngài có thể ban bố cáo cho tất cả các tổng đốc tỉnh, các huyện lệnh, các Oknha, Chao Ponhea, Oknha Ponhea, Preah, các lý trưởng và thần dân để họ tường. (Bọn ta) không biết liệu hoàng tử Ang Duong đã truyền đạt cho các tổng đốc[85] của tất cả các tỉnh, các lý trưởng rồi hay chưa. (Bọn ta) nhận thấy rằng dân chúng ở các làng lân cận đã đến buôn bán hàng hóa, trong khi dân chúng ở các làng xa vẫn chưa thấy. Vì vậy, hai ta, các quan đại thần, đã hạ bút lá thơ này gửi cho Oknha Chao Ponhea để ngài bố cáo cho tất cả các tỉnh để người Khmer đến buôn bán với người Việt trong điều kiện tốt như trước đây. Không có vấn đề gì cả[86]. Người Khmer đừng sợ (người Việt) nữa. Trong các quan lại và người dân Khmer, những ai đã sai phạm trong quá khứ chớ có lo lắng nữa. Vậy là đã phán quyết, bởi vì vua An Nam đã hạ cố ân xá cho tất cả bọn họ[87]. (Vua An Nam) cấm bắt giữ, giết hại và khủng bố họ. Người miễn sưu và thuế má (cho người Khmer). Vậy, tất cả các Oknha, Chao Ponhea hãy tập hợp tất cả các quan lớn nhỏ của các làng khác nhau, họ vốn trốn chạy vì sợ hãi (người Việt) trong những ngày qua, hãy cùng gia đình trở về bản quán của mình. Họ sẽ hạnh phúc và có thể mưu sanh. Bọn ta truyền bá tin này vì lẻ đó. Nếu họ không tin (thiện ý của bọn ta), bọn ta xin thề trước Tévoda[88] thổ địa và Arakha[89]. Nay bọn ta bố cáo[90], hãy tin tưởng, hãy viết thơ cho bọn ta tường tỏ.
Message fait le vingt-huitième jour, du dixième mois, de la troisième année du règne de Thieu Tri185.
Le troisième document est la traduction du vietnamien en khmer d’un message de deux généraux vietnamiens adressé au gouverneur de la province de Baphnom. Par conséquent, le traducteur ne peut pas être tenu pour responsable des répétitions (des termes quasi identiques apparaissent aux lignes 4, 6, 10 et 16, il en est de même pour les 7, 8, et 19, 20) et de la mauvaise présentation du texte. Cependant, il n’a guère soigné sa traduction, c’est ainsi qu’elle comporte aussi des expressions typiquement orales telles que kmean auy té «sans problème», (1. 17) et kum … thoy tiet loey «ne plus» (1. 17). En outre, il y a des incorrections dues au fait que le traducteur n’a pas fait usage du vocabulaire royal, que pourtant il n’ignorait pas.
Lá thơ được viết vào ngày Hai mươi tám, tháng Mười, năm thứ ba triều Thiệu Trị[91].
Tài liệu thứ ba là bản dịch lá thơ do hai vị tướng Việt gửi tổng đốc tỉnh Baphnom từ tiếng Việt qua tiếng Khmer. Vì vậy, người dịch không thể chịu trách nhiệm về các sự lặp lại (các từ gần như giống y nhau xuất hiện ở dòng 4, 6, 10 và 16, cũng như ở dòng 7, 8, 19 và 20) cũng như về cách trình bày kém cỏi của văn bản. Song, người dịch không mấy chăm chút cho bản dịch của mình, do đó văn bản có các khẩu ngữ điển hình, chẳng hạn như kmean auy té (“không có vấn đề gì”, dòng 17) và kum … thoy tiet loey (“đừng … nữa”, dòng 17). Ngoài ra, còn có những sai sót do người dịch đã không sử dụng từ vựng hoàng gia, cái điều ông không thể không biết tới.
Exemples:
- L’expression anak ang tuon (1.12) désignant le roi Ang Duong est rarement employé, sauf dans les échanges de messages entre les members de la famille royale. On aurait dû utiliser la simple expression brah ang tuon.
- L’emploi de mae anak ang tuon, (1.5) pour appeler la reine mère est incorrect. C’est un manque de respect. On devrait dire brah mata brah ang tuon.
- La reine Ang Mei est désignée par le terme vietnamien pâkvin juo, (1.5) qui veut dire «la grande princese». Cf. n. 175. C’est sans importance si on parle de la signification du mot, mais si l’on tient compte de l’usage, on s’aperçoit que cet emploi est péjoratif et méprisant. On aurait dû l’appeler brah ang mï.
Ví dụ:
- Cụm từ anak ang tuon (1.12) dùng để chỉ vua Ang Duong ít khi được sử dụng, trừ phi trong các thơ từ trao đổi giữa các thành viên của Hoàng tộc. Phải dùng cụm từ đơn giản là brah ang tuon.
- Việc sử dụng mae anak ang tuon (1.5) để gọi Thái hậu là không đúng. Điều này thể hiện sự thiếu tôn trọng. Phải nói là brah mata brah ang tuon.
- Nữ hoàng Ang Mei được diễn đạt cụm từ tiếng Việt pâkvin juo (1.5), có nghĩa là “Trưởng công chúa”. Xem chú thích số 79. Sẽ không quan trọng nếu xét về nghĩa của từ, nhưng nếu xét về cách sử dụng, ta nhận thấy cách gọi này mang mang nghĩa xấu và khinh thị. Phải gọi bà là brah ang mï.
- Les termes du vocabulaire royal correspondant au mot pha-ùn (1.5) «le cadet ou la cadette», sont selon l’ordre croissant de dignité: ânuja (mot d’origine sanskrite), brah ânuja et samtec brah ânuja. Il est très étonnant que notre traducteur ait employé cette dernière expression dans ligne 12, mais pas dans la ligne 5. C’est probablement de la négligence, puisqu’il s’agit d’un message destiné à un gouverneur khmer.
La lettre est signée par les généraux Tê Tok et An Sach, tous deux responsables des préparatifs des échanges commerciaux. De son contenu, on peut retenir points essentiels:
- Các từ trong vốn từ vựng hoàng gia tương ứng với từ pha-ùn (1.5) «em trai hay em gái» theo thứ tự tăng dần về phẩm tước, bao gồm: ânuja (từ gốc tiếng Sanskrit), brah ânuja và samtec brah ânuja. Thật ngạc nhiên khi người dịch sử dụng cụm từ cuối cùng này ở dòng 12, nhưng lại không dùng ở dòng 5. Rõ đây là sự cẩu thả, bởi vì đây là một thơ tín gửi tổng đốc người Khmer.
Lá thơ do các vị tướng Tê Tok và An Sach ấn triện, cả hai vị chịu trách nhiệm chuẩn bị cho việc trao đổi thương mại. Từ nội dung của thơ, chúng ta có thể rút ra những điểm cốt yếu sau
- Le roi Thieu Tri, en réponse à la demande formulée par la reine mère et la reine Ang Mei, ordonne au deux généraux de surveiller les travaux de construction d’un marché dans le village de Peam Svay Mi. On a choisi cet endroit pour deux raisons: d’abord on y disposait d’une facilité de transport des marchandises, puisque le village était près de la province de Gia dinh (Saigon), un des grands centres commerciaux et ensuite il y était facile d’assurer la sécurité des Vietnamiens.
- Vua Thiệu Trị, để đáp lại yêu cầu của Thái hậu và Nữ hoàng Ang Mei, đã ra lệnh cho hai vị tướng giám sát công việc xây dựng một cái chợ ở làng Peam Svay Mi. Địa điểm này được chọn vì hai lý do: trước tiên, việc vận chuyển hàng hóa thuận tiện do làng nằm gần tỉnh Gia Định (Sài Gòn), một trong những trung tâm thương mại lớn; thứ tới, dễ đảm bảo an ninh cho người Việt.
- Le roi Thieu Tri décide que les mandarins et les paysans khmers qui se sont soulevés contre les Vietnamiens en 1842, sont tous grâciés. Ils peuvent rentrer tranquillement chez eux. Ils sont maintenant exempts de corvée et d’impôt.
- Vua Thiệu Trị quyết định ân xá cho tất cả các quan lại và nông dân Khmer đã nổi dậy chống lại người Việt vào năm 1842. Họ có thể an tâm trở về nhà mình. Giờ đây, họ được miễn đi sưu và thuế má.
- Pourquoi cette lettre?
Elle est datée du 17 décembre 1843, c’est-à-dire à peine une semaine après les deux précédentes. Selon les deux auteurs, les responsables vietnamiens sont impatients de voir venir les Cambodgiens des villages lointains; jusqu’à cette date, ils ne faisaient du commerce qu’avec ceux des villages voisins. Comme ils sont inquiets et n’ont confiance ni en la reine mère, ni en la reine Ang Mei, ils rédigent la lettre adressée au gouverneur de Baphnom qui devra ensuite transmettre les informations aux autres chefs de provinces et au peuple khmer.
- Tại sao lại có lá thơ này?
Lá thơ đề ngày 17 tháng 12 năm 1843, tức chỉ chưa đầy một tuần sau hai lá thơ trước đó. Theo hai tác giả, các quan chức Việt nóng lòng muốn thấy người Kampuchia ở các làng xa tới buôn bán; cho tới lúc đó, họ chỉ buôn bán với người dân ở các làng lân cận. Do lo lắng và không tin cả Thái hậu lẫn Nữ hoàng Ang Mei, họ biên gửi tổng đốc Baphnom, vị này sau đó sẽ truyền đạt tin này tới các quan chức tỉnh khác và người dân Khmer.
Enfin, les deux généraux qui faisaient répéter dans leur message quatre fois la phrase suivante: «afin que les Khmers et les Vietnamiens reprennent ensemble le commerce dans les meilleures conditions, comme dans le passé», voulaient montrer que le roi Thieu Tri était plein de clémence et de compassion envers le peuple khmer. Cela ne correspond pas à la réalité, car pour retrouver leur indépendance et une grande partie de leur territoire et pour que les familles royales gardées en otage au Vietnam soient rendues, il faudra que les Cambodgiens avec l’aide des Siamois combattent les Vietnamiens pendant deux ans, de 1844 à 1845.
Điều cuối cùng, hai vị tướng nhắc lại tới bốn lần trong thơ của mình câu: “để người Khmer và người Việt có thể tiếp tục cùng nhau buôn bán trong những điều kiện tốt nhất như trước đây”, tức họ muốn chứng tỏ vua Thiệu Trị đầy khoan dung và trắc ẩn đối với người Khmer. Điều này không đúng với thực tế, bởi vì để giành lại độc lập và một phần lớn lãnh thổ, cũng như để các gia đình hoàng tộc bị bắt làm con tin ở Việt Nam được trao trả, người Campuchia phải chiến đấu chống người Việt trong hai năm với sự giúp đỡ của người Xiêm, từ năm 1844 đến năm 1845.
Chú thích
[1] Les trois documents portent les cotes suivantes: – Ba tài liệu này có ký hiệu như sau:
[2] La rédaction de cette partie se fonde sur la chronique cambodgienne, version de Venang Chuon (qui sera citée dans la suite par le sigle VJ) appartenant à la Bibliothèque de l’institut Bouddhique de Phnom Penh. – Nội dung phần này dựa theo Biên niên sử Campuchia, bản Venang Chuon (các trích dẫn về sau sẽ viết tắt là VJ) thuộc Thư viện Viện Phật giáo Phnom Penh.
[3] Le roi Ang Eng fut couronné en 1794 à l’âge de 22 ans. Son nom de sacre était Brah Nrâyana Râmmâdhipatï brah Sri suriyobarna parama surindra mahà cakrabattirâja parama pabitra. (Cf. VJ, t. VI, pp. 743-744). Avant sa mort, le roi Ang Eng fit quatre recommandations dont la plus importance était que le Chaovea Tolha Pok seul détiendrait le droit de choisir son successeur au trône parmi les cinq princes. – Vua Ang Eng lên ngôi vào năm 1794 khi mới 22 tuổi. Vua lấy hiệu là Brah Nrâyana Râmmâdhipatï brah Sri suriyobarna parama surindra mahà cakrabattirâja parama pabitra. (Cf. VJ, t. VI, trang 743-744). Trước khi qua đời, vua Ang Eng đã đưa ra bốn di huấn, trong đó quan trọng nhất là việc Chaovea Tolha Pok sẽ là người duy nhất có quyền chọn người kế vị ngai vàng trong số năm hoàng tử.
[4] C’était le général Phraya Chakri, connu sous le nom de Preah Putyât Hva Chulalok, fondateur de la dynastie de Bangkok ou dynastie des Chakri. Il régna de 1782 à 1809. Cf. G. Goedès, Les peuples de la péninsule indochinoise, Paris, 1962, p. 156. – Đó là tướng Phraya Chakri, được biết đến với tên Preah Putyât Hva Chulalok, người sáng lập vương triều Bangkok hay còn gọi là vương triều Chakri. Ông trị vì từ năm 1782 đến năm 1809. Xem G. Goedès, Les peuples de la péninsule indochinoise, Paris, 1962, tr. 156.
[5] Le prince Nguyên Anh fut couronné roi d’Annam en 1801 sous le nom de Gia Long. Cf. A. Launay, Histoire ancienne et moderne de l’Annam, Paris, 1884, p. 248. Hoàng tử Nguyễn Ánh lên ngôi vua An Nam vào năm 1801 lấy hiệu Gia Long. Xem. A. Launay, Histoire ancienne et moderne de l’Annam, Paris, 1884, tr. 248.
[6] Dans la version de VJ, Tai Sôn est devenu Kai Son car les deux consonnes khmères t et k sont peu différentes. Sur les Tai Sôn, Cf. Ch. Gosselin, L’Empire D’Annam, Paris, 1904, pp. 100-106. Trong bản của VJ, Tai Sôn viết thành Kai Sơn vì hai phụ âm Khmer t và k không khác nhau nhiều. Về Tai Sôn, xem. Ch. Gosselin, L’Empire D’Annam, Paris, 1904, tr. 100-106.
[7] L’auteur de la version de VJ n’a pas précisé si les cinq cents vietnamiens faisaient partie du cadeau ou s’ils étaient simplement les hommes qui accompagnaient le délégation. – Tác giả của bản VJ không nói rõ là năm trăm người Việt đó phải chăng là một phần của tặng phẩm hay họ chỉ là những người tuỳ tùng sứ đoàn.
[8] II fut connu sous le nom de Preah Put Loeutla Nabhealai et régna de 1809 à 1824. – Ngài còn được biết đến với tên Preah Put Loeutla Nabhealai và trị vì từ năm 1809 đến năm 1824.
[9] L’Obhayoreach est le titre que porte normalement le roi qui a abdiqué et le vice-roi porte celui d’Oparach – Obhayoreach là tước hiệu vốn thường dành vị vua đã thoái vị mang, và phó vương mang tước hiệu Oparach.
[10] Ce pourrait être un village nommé Peam Kanchoeu, situé sur le Mékong à lafrontière entre le Cambodge et la Cochinchine. Đó có thể là một ngôi làng tên Peam Kanchou, nằm trên sông Mekong ở biên giới Kampuchia và Nam Kỳ.
[11] C’est l’actuelle province de Chaudoc. Les noms des provinces de Cochinchine, ancien territoire khmer, ont été beaucoup modifiés par les Vietnamiens, surtout pendant l’occupation française (1858-1954). Par exemple:
Br ah Trapeang est devenu Travinh;
Moat Chrouk est devenue Chaudoc;
Après 1954, dans le cadre de la politique de vietnamisation de tout le territoire de Cochinchine, le nom de chaque province a été changé de nouveau ou bien la province elle-même a été divisée en deux, trois ou quatre circonscriptions dont chacune portait alors un autre nom.
Exemples:
Brah Trapeang (Travinh) est devenu Vinh Binh;
Moat Chrouk (Chaudoc) fut divisée en: An Giang, Chaudoc et Long Xuyen.
Kramuon Sa (Rachgia) fut divisée en: Chuong Thien, Rach Gia, Cantho, Ba Xuyen et An Xuyen.
C’est ainsi que nous avons beaucoup de difficultés pour identifier sur une carte récente les noms des villages khmers cités par les documents anciens.
Đây là tỉnh Châu Đốc hiện nay. Tên của các tỉnh ở Nam Kỳ, một vùng lãnh thổ cũ của người Khmer, đã được người Việt đổi rất nhiều, đặc biệt là trong thời kỳ bị Pháp chiếm đóng (1858-1954). Ví dụ:
Brah Trapeang (Trà Vinh) thành Vĩnh Bình;
Moat Chrouk thành Châu Đốc;
Sau năm 1954, theo chính sách Việt Nam hóa toàn bộ lãnh thổ Nam Kỳ, tên của từng tỉnh lại được đổi qua tên mới hay chia thành hai, ba hoặc bốn hạt, mỗi hạt có một tên gọi khác nhau.
Ví dụ:
Brah Trapeang (Trà Vinh) trở thành Vĩnh Bình;
Moat Chrouk (Châu Đốc) được chia thành: An Giang, Châu Đốc và Long Xuyên.
Kramuon Sa (Rạch Giá) được chia thành: Chương Thiện, Rạch Giá, Cần Thơ, Ba Xuyên và An Xuyên.
Đó là vì sao chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định trên bản đồ gần đây tên các ngôi làng Khmer được đề cập trong các tài liệu xưa.
[12] Cette province fut appelée Vinh Long par les Vietnamiens. Après 1954, elle fut divisée en deux: Vinh Long et Vinh Long-Sadec. Cf. Monographie de la province de Vinh Long, Publ. de la Société des Etudes Indochinoises, Saigon, 1911, pp. 5-17. – Tỉnh này được người Việt Nam gọi là Vĩnh Long. Sau năm 1954, tỉnh Vĩnh Long được chia thành hai tỉnh: Vĩnh Long và Vĩnh Long-Sa Đéc. Cf. Monographie de la province de Vinh Long, Publ. của Société des Etudes Indochinoises, Sài Gòn, 1911, tr. 5-17.
[13] Ce pourrait être dans la région de Kien Svay située sur la rive droite du Mékong à une trentaine de kilomètres de Phnom Penh, sur la route reliant Phnom Penh à Svay Rieng. – Làng này có thể ở vùng Kien Svay, nằm ở bờ phải sông Mekong, cách Phnom Penh khoảng ba mươi km, trên con đường nối Phnom Penh với Svay Rieng.
[14] Tức Trương Minh Giảng, các tài liệu Khmer gọi ông là Ong Truong Kun (អុងទ្រឿងគុន). Từ điển tiếng Khmer, Choun Nath, giải thích “Ong” là từ gốc Việt, tương đương từ Khmer là Look, tức Ông, Ngài dùng để chỉ các vị chức sắc hay tu sỹ Việt; vậy, Ong Truong Kun có phải là phiên âm cụm từ “Ông Trương (tướng) quân”? ND.
[15] II était connu sous le nom de Nang Klav et il régna de 1824 à 1851. – Ngài được biết dưới tên gọi Nang Klav và ngài trị vì từ năm 1824 tới năm 1851.
[16] Dans la collection «Papiers d’Aymonier» de la Société Asiatique, paquet n° 5, Siam, p. 4 nous avons trouvé des renseignements concernant les démarches entreprises par le prince Ang Im auprès des Vietnamiens lors de sa captivité. Voici la traduction de la page du manuscrit:
«A la citadelle de Moat Chrouk, il avait environ plus de 200 soldats, dans l’île de Lao, au Nord de la ville de Moat Chrouk, il y en avait 200 et dans la citadelle de Prêk Chik, il y en avait 1000. Le huitième mois de l’année du Tigre, quatrième de la décade (1842 AD), selon les Vietnamiens, le prince Ang Im demanda aux responsables vietnamiens de Moat Chrouk que la partie allant de la province de Phnom Penh jusqu’à Moat Chrouk, territoire appartenant à son père le roi Ang Chan, lui soit confiée, que celle allant de Phnom Penh jusqu’à Pursat soit attribuée au prince Ang Duong et que les mandarins et le peuple aient le libre choix pour l’un ou l’autre camp. Les Vietnamiens répondirent qu’ils allaient envoyer un message à la cour de Hué, qu’il fallait attendre la décision du roi d’Annam et qu’ensuite le prince Ang Im pourrait discuter du problème avec le prince Ang Duong.» – Trong bộ sưu tập “Papiers d’Aymonier” của Société Asiatique, bó số 5, Siam, tr. 4 chúng tôi đã tìm thấy thông tin liên quan đến các cuộc vận động của Hoàng tử Ang Im với người Việt trong thời gian ông bị giam cầm. Sau đây là bản dịch của trang thủ bản:
“Tại thành Moat Chrouk, có khoảng hơn 200 quân sỹ; trên đảo Lao, phía bắc thành phố Moat Chrouk, có 200 quân sỹ, và tại thành Prêk Chik, có 1.000 quân sỹ. Vào tháng thứ tám năm Dần, năm thứ tư của thập niên (tức năm 1842 CN), theo người Việt, hoàng tử Ang Im đã đề nghị với các quan Việt ở Moat Chrouk rằng phần từ tỉnh Phnom Penh đến Moat Chrouk, là đất thuộc về cha ông – vua Ang Chan, nên được giao cho ông; phần từ Phnom Penh đến Pursat sẽ thuộc về hoàng tử Ang Duong, và các quan lại cùng dân chúng sẽ được tự do lựa chọn theo phe nào. Người Việt trả lời rằng họ sẽ gửi tấu lên triều đình Huế, yêu cầu hoàng tử Ang Im chờ quyết định từ vua An Nam, sau đó hoàng tử Ang Im có thể thảo luận vấn đề này với hoàng tử Ang Duong.”
[17] Nous traduisons par «message» le mot khmer samnuor qui signifie «question» et nous conservons le terme khmer Samtec. – Chúng tôi dịch từ Khmer Samnour, vốn có nghĩa “câu hỏi”, và chúng tôi giữ nguyên từ Khmer Samtec.
[18] La reine Ang Mei, mise sur le trône du Cambodge en 1835 par le général vietnamien Kham Mang. Cf. supra, p. 3. Elle était la fille du roi Ang Chan, demi-frère du roi Ang Duong. – Nữ vương Ang Mei, do vị tướng Việt Kham Mang đặt lên ngôi vua Khmer vào năm 1835. Cf. supra, p. 3. Bà là con gái của vua Ang Chan, anh em cùng cha khác mẹ với vua Ang Duong.
[19] Isora pourrait être le nom du roi Ang Duong au moment du premier couronnement en 1843. En 1847, il fut couronné roi de tout le Cambodge et son nom de sacre était Brah Harirak râmâ isarâdhipatï. Cf. VJ, t. VII, p. 825. – Isora có thể là hiệu của vua Ang Duong khi đăng quang lần đầu tiên vào năm 1843. Năm 1847, ông được phong làm vua toàn quốc Kampuchia, và hiệu trong lễ đăng quang của ông là Brah Harirak râmâ isarâdhipatï. Cf. VJ, quyển VII, trang 825.
[20] C’est un composé pâli: gilâna «être fatigué» et anubhàba «puissance». En Khmer, le premier terme signifie «être malade» et l’ensemble désigne «maladies». La dernière partie de cette phrase signifie littéralement «causer des ennuis dans l’auguste fortuné corps». – Đây là một từ ghép tiếng Pali: gilâna có nghĩa là “mệt mỏi” và anubhàba có nghĩa là “sức mạnh”. Trong tiếng Khmer, từ đầu tiên mang nghĩa “bị bệnh” và toàn bộ cụm từ có nghĩa là “các căn bệnh”. Phần cuối của câu này có nghĩa đen là “gây rắc rối cho long thể tôn quý và đế phúc”.
[21] Le Triple Joyau de la religion bouddhique ce sont: Buddha, Dharma et Sangha. Le texte khmer dit: tous les trois Triple Joyau. – Tam bảo trong Phật giáo gồm có: Phật, Pháp, Tăng. Chính văn Khmer gọi: toàn thể Tam bảo.
[22] C’est par politesse envers le roi Ang Duong que le terme du vocabulaire royal, bhagineyya «fils ou fille de la sœur» n’est employé que dans le début du message jusqu’à la ligne 4, puisque dans la suite, le mot est remplacé par le terme khmer kmuoy «neveu ou nièce». – Vì lễ độ đối với vua Ang Duong, từ ngữ hoàng gia bhagineyya (có nghĩa là “con trai hay con gái của chị/em gái”) chỉ được sử dụng ở phần đầu của lá thơ cho đến dòng thứ tư. Sau đó, từ này được thay thế bằng từ Khmer kmuoy, có nghĩa là “cháu trai hoặc cháu gái”.
[23] A cette époque, Ang Duong n’était reconnu roi que par la population de la partie septentrionale du Cambodge. Mais à travers ces phrases, on sent que la reine Ang Mei était prête à le reconnaître roi de tout le pays. – Khi đó, Ang Duong chỉ được người dân miền bắc Campuchia công nhận là vua. Nhưng qua các câu này, ta cảm thấy Hoàng hậu Ang Mei sẵn sàng công nhận ông là vua của cả nước.
[24] Le jeudi 4 mai 1843 AD. Nous remercions M.R. Billard qui a bien voulu nous communiquer toutes les dates correspondantes dans le calendrier solaire. – Thứ Năm, ngày 4 tháng Năm năm 1843. Chúng tôi xin cám ơn M.R. Billard, ông đã vui lòng trao đổi với chúng tôi về tất cả các ngày dương lịch tương ứng.
[25] Par mesure de sécurité personnelle pour le messager, son nom ne figure pas dans la lettre. – Vì sự an toàn cá nhân của vị sứ giả, tên của ông không được ghi trong thư.
[26] On n’a pas retrouvé ce message. Mais, nous pouvons connaître le contenu dans les lignes qui suivent. – Chúng tôi không tìm ra lá thơ. Song, chúng ta có thể biết nội dung lá thơ trong các dòng tiếp sau.
[27] Litt. «Samtec l’auguste oncle paternel». – Nghĩa đen: “Samtec, người bác cao quý.”
[28] Le texte n’est pas précis. Il s’agit soit du grand père et du père du roi Ang Duong donc du roi Ang Tân (1758-1775) et du roi Ang Eng (1779-1796), soit ceux de la reine Ang Mei c’est-à-dire du roi Ang Eng et du roi Ang Chan (1806-1834). – Đoạn văn không rõ ràng. Đây có thể, hoặc là ông nội và cha của vua Ang Duong, tức là vua Ang Tan (1758-1775) và vua Ang Eng (1779-1796), hoặc của hoàng hậu Ang Mei, tức là vua Ang Eng và vua Ang Chan (1806-1834).
[29] «Roi d’Annam» correspond au terme khmer sdach tevoda qui signifie littéralement «roi dieux». Ce terme khmer est la traduction du Vietnamien Ong Tro’i «Monseigneur du Ciel», qui désigne le roi. Il s’agit ici du roi Thieu Tri (1841-1847) de la dynastie des Nguyên. Cf. A. Launay, Histoire ancienne et moderne de l’Annam, Paris, 1884, p. 248. – “Vua An Nam” tương ứng với thuật ngữ Khmer sdach tevoda có nghĩa đen là “vua thần”. Thuật ngữ tiếng Khmer này là dịch từ tiếng Việt “Ong Tro’i” “Monseigneur du Ciel”, có nghĩa là nhà vua. Đây là vua Thiệu Trị (1841-1847) của triều Nguyễn. Cf. A. Launay, Histoire ancienne et moderne de l’Annam, Paris, 1884, p. 248
[30] Litt. «Quant au contenu de l’auguste message». – Nghĩa đen “Về nội dung của lá thơ cao quý.”
[31] Le mot «oncle» ici employé ne marque pas la parenté, mais le respect et l’intimité de la reine envers les deux mandarins. – Từ “Bác” không dùng để chỉ tính huyết thống mà bày tỏ ssự kính trọng và mật thiết của hoàng hậu đối với hai vị quan.
[32] II s’agit de Samdach Chaovea Tolha Long et Samdach Choa Ponhea Hou qui avaient été nommés par le roi Ang Chan en 1834. Cf. VJ. t. VI, p. 794. – Đây là Samdach Chaovea Tolha Long và Samdach Choa Ponhea Hou, những người đã được vua Ang Chan bổ nhậm vào năm 1834. Xem VJ, tập VI, trang 794.
[33] Chaque nom est précédé du terme vietnamien Ong qui signifie «monsieur». Ici, comme c’étaient les généraux qui détenaient le pouvoir dans chaque province, le mot Ong peut désigner «le général d’armée». – Mỗi cái tên đều có một từ Việt Ong đứng trước có nghĩa là “Ông”. Ở đây, vì các vị tướng nắm giữ quyền lực ở mỗi tỉnh nên từ Ong có thể chỉ “tướng quân”.
[34] Le samedi 27 mai 1843 AD. – Ngày thứ Bảy, 27 tháng Năm năm 1843 CN.
[35] Litt. «royaume de Hué». – Nghĩa đen “ Kinh đô Huế.
[36] Le lundi 2 octobre 1843 AD. – Ngày thứ Hai, 02 tháng Mười năm 1843 CN.
[37] Traduction de l’expression khâv Ipât. Le premier terme d’origine siamoise signifie «entrer», le second est khmer et veut dire «surveiller, garder». L’ensemble signifie «prendre la garde», mais désigne également «les gardes». Dịch cùm từ khâv Ipât. Từ đầu tiên có gốc Thái có nghĩa là “vào”, từ thứ nhì là từ Khmer có nghĩa là “giám sát, canh gác”. Cả cụm từ có nghĩa là “canh gác”, nhưng cũng dùng để chỉ ” lính canh”.
[38] Ce pourrait être un village de la province de Gia Dinh. Địa danh này có thề là một làng thuộc tình Gia định.
[39] II est impossible de repérer le village de Ta Ong sur une carte moderne. Không thể xác định được vị trí của làng Ta Ong trên bản đồ hiện đại.
[40] C’est un srok de l’actuelle province de Svây Rieng. Một srok thuộc tỉnh Svay Rieng hiện nay.
[41] Localité non identifiée. Dans la lettre des deux généraux vietnamiens elle est appelée Prêk Svay Mi. – Địa danh chưa xác định được. Trong lá thư của hai vị tướng Việt, nơi này được gọi là Prêk Svay Mi.
[42] Elle s’appelait l’Anak Mneang Ros. Cf. VJ, t. VI, p. 742. – Đức bà tên là l’Anak Mneang Ros. Cf. VJ, t. VI,trg. 742
[43] C’est la traduction de l’expression: mak pïet pîen pindâ yâyiy. Dịch cụm từ: mak pïet pîen pindâ yâyiy.
[44] Le mot sila signifie ici «le fait de se conduire selon les préceptes de la religion bouddhique», producteur de mérites. – Ở đây từ Sila có nghĩa là “hành vi tuân theo Phật pháp”, nguồn tạo ra công đức.
[45] Du pâli bara «vœux» et du khmer a «heureux». – Từ Pali Bara có nghĩa là “ước nguyện”, tiếng Khmer nghĩa là đặng “phước”.
[46] A cause de l’absence de signe de ponctuation, on pourrait comprendre aussi «pour que la religion bouddhique continue à exister encore longtemps». – Do không có dấu chấm câu, ta cũng có thể hiểu là “để Phật tiếp giáo tục tồn tại lâu dài”.
[47] Cf. supra, n. 24. Xem chú thích số 24 bên trên.
[48] Litt. «voir». – Nghĩa đen là “gặp”.
[49] Par mesure de sécurité personnelle pour le messager, son nom ne figure pas dans la lettre. Vì lý do an toàn cá nhân của sứ giả, tên của vị này không được nêu trong thơ.
[50] L’emploi du terme mtây «maman» dans le message khmer pour le pronom personnel, première personne, marque son amour pour le roi son fils. – Việc sử dụng từ Mtây (“mẹ”) trong thơ tín tiếng Khmer để chỉ đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, một từ thể hiện sự yêu thương của Đức bà dành cho nhà vua, con trai của mình.
[51] Nous n’avons pas traduit «oy dau sour dtày cpâp’ 1» qui signifie littéralement «un message qui m’est adressé». – Chúng tôi không dịch cụm từ «oy dau sour dtày cpâp’ 1» với nghĩa đen là “một lá thơ gửi đến ta”.
[52] Pour ne pas alourdir la traduction, je n’ai pas traduit l’expression dau ta? «(le message) arrive» précédent la proposition «je l’ai lu». – Để bản dịch không bị rườm rà, tôi đã không dịch cụm từ Dau Ta? (“(lá thơ) đến”) trước mệnh đề “tôi đã đọc nó”.
[53] Cf. supra, n. 28. Xem chú thích số 28 bên trên.
[54] Cf. supra, n. 29. Xem chú thích số 29 bên trên.
[55] Cf. supra, n. 32. Xem chú thích số 32 bên trên.
[56] Le samedi 27 mai 1843 AD. – Thứ Bảy, 27 tháng Năm năm 1843 CN.
[57] Le lundi 2 octobre 1843 AD. – Thứ Hai, 2 tháng Mười năm 1843 CN.
[58] A l’époque, le roi Ang Duong n’avait sous son autorité qu’une partie du Cambodge, principalement les provinces de Pursat, Battambang, Siemreap, KompongThom et Kompong Chhnang. – Thời đó, vua Ang Duong chỉ có quyền hành ở một phần Kampuchia, chủ yếu là các tỉnh Pursat, Battambang, Siem Reap, Kompong Thom và Kompong Chhnang.
[59] Ce pourrait être le prince Chrâloeung qui naquit en 1835. Il fut consacré roi en 1860 sous le nom de Norodom. Đây có thể là hoàng tử Chrâloeung sanh năm 1835. Người đăng quang vào năm 1860 với hiệu danh Norodom.
[60] Le mot ae dans cette phrase marque plutôt la supposition. – Từ ae trong câu thể hiện sự giả định.
[61] Le mot phsa est très peu employé en khmer moderne. J. Guesdon, dans son dictionnaire Cambodgien- Français, p. 1180, pour ce mot donne deux sens «désirer» et «parce que». Le second sens lui paraît moins sûr. Parmi les exemples qu’il a donné, il y en a deux dans lesquels phsâ signifile «parce que». Le dictionnaire de l’institut Bouddhique, t. I, p. 716 donne deux sens: «parce que» et «parce qu’(il) désire». Cependant, dans les exemples donnés, phsa signifie «parce que». – Từ phsa rất ít khi được sử dụng trong tiếng Khmer hiện đại. J. Guesdon, trong từ điển Kampuchia-Pháp của mình, tr. 1180, đưa ra hai nghĩa là “mong muốn” và “bởi vì” cho từ này. Có vẻ ông không chắc chắn với nghĩa thứ hai. Trong số các ví dụ ông đưa ra, có hai ví dụ mà phsa có nghĩa là “bởi vì”. Từ điển của Viện Phật giáo, tập I, tr. 716 đưa ra hai nghĩa: “Bởi vì” và “bởi vì (y ta) muốn”. Song, trong các ví dụ được đưa ra, phsa có nghĩa là “bởi vì”.
[62] C’est la partie Nord du Cambodge et non pas tout le royaume khmer. En outre l’expression khmère nagar muoy implique l’idée d’un grand pays indépendant. – Đây là phần phía bắc Kampuchia chớ không phải là toàn quốc. Hơn nữa, cụm từ Khmer nagar muoy hàm ý một quốc gia độc lập lớn.
[63] La reine mère était avec les trois princesses dans la province de Kien Svay et le roi Ang Duong résidait à Oudong à quelque 80 Km seulement, mais dans le texte khmer, le mot «loin» signifie qu’elle est séparée de son fils et que celui-ci n’était pas autorisé à lui rendre visite. C’est «loin» dans l’esprit et dans le «cœur» pour une mère. – Thái hậu ở cùng ba công chúa ởisora tỉnh Kien Svay, còn vua Ang Duong ngự ở Oudong, chỉ cách khoảng 80 km. Nhưng, nguyên văn tiếng Khmer, từ “xa” có nghĩa là Đức bà bị phân ly với con trai mình và Ngài không được phép đến thăm bà. Đó là sự “xa cách” trong tâm trí và trái tim của một người mẹ.
[64] Le mot nagar dhdham signifie «grand pays». – Từ nagar dhdham có nghĩa là “đất nước vĩ đại”.
[65] L’expression siamoise «chao khun» désigne le général de l’armée envoyé en mission au Cambodge en 1842: le Chao Khun Padin Dêchea. – Cụm từ Thái chỉ vị tướng quân được phái sang Kampuchia vào năm 1842: tướng Chao Khun Padin Dêchea.
[66] Soit 1840 AD. – Tức năm 1840 CN.
[67] Theo Âm lịch Khmer, tên Mười hai con giáp đa số trùng với Mười hai con giáp lịch Việt (ngoại trừ Trâu là Bò, Mèo là Thỏ; đa số tên gọi là phiên âm tên Việt , ví dụ: Chuột thành Chuot, Rồng thành Roong, v.v. Xem thêm: Le cycle khmer des douze animaux histoire d’un contact ancien entre Vietnam et Cambodge [On the khmer twelve-year animal cycle : evidence of ancient contact between Vietnam and Cambodia], Michel Ferlus. Cahiers de Linguistique – Asie Orientale Année 2010 39-1 pp. 3-19. ND.
[68] Le mot sankim veut dire une sorte de drap, (Cf. J. Guesdon, Dictionnaire Cambodgien-Français, p. 1674). Mais d’après le Dictionnaire de l’institut Bouddhique, le mot signifie «un tissu en soie, à petites fleurs». Dans le message, le mot désigne le morceau de tissu, l’étui du plat. – Từ sankim chỉ một loại khăn bọc ngoài (xem J. Guesdon, Dictionnaire Cambodgien-Français, trang 1674). Song, theo Tự điển Viện Phật giáo, từ này có nghĩa là “một loại vải lụa có hoạ tiết bông hoa nhỏ”. Trong thơ, từ này dùng để chỉ tấm vải bọc thức ăn.
[69] Soit le lundi 11 décembre 1843 AD. – Tức ngày thứ Hai, 11 tháng 12 năm 1843 CN.
[70] Le mot vietnamien quân, signifie «soldat, armée». Ici, nous pensons qu’il s’agissait des chefs d’armée, d’où l’emploi du terme «général (d’armée)» dans la traduction. – Từ quân trong tiếng Việt có nghĩa là “lính tráng, quân đội”. Ở đây chúng tôi nghĩ từ này chỉ người chủ huy quân đội, do đó bản dịch này sữ dụng từ “tướng (quân)”.
[71] Le mot tēn semble provenir du vietnamien trân, qui signifie «province». – Từ tēn dường như từ từ trân tiếng Việt, có nghĩa là “tỉnh”.
[72] Le mot transcrit en khmer ÿâ tēn désigne sans aucun doute Gia Dinh, puisque selon la lettre de la reine Ang Mei, 1. 21, le village de Cong Hoa dépendait de Prei Nokor qui correspond à Gia Dinh en vietnamien. – Từ phiên âm tiếng Khmer ÿâ tēn chắc chắn chỉ Gia Định, vì theo bức thư của Nữ hoàng Ang Mei, dòng thứ 21, làng Cong Hoa thuộc Prei Nokor tương ứng với Gia Định trong tiếng Việt.
[73] Un srok de l’actuelle privince de Prey Véng. – Một huyện thuộc tỉnh Prey Veng hiện nay.
[74] Ce sont les titres des différents grades de la hiérarchie des mandarins khmers. Le terme Oknha Chao Ponhea ne figure pas dans la liste officielle des mandarins sous le règne du roi Ang Duong. – Đây là các chức vị khác nhau trong tôn ti ngạch trật của quan lại Khmer. Từ Oknha Chao Ponhea không xuất hiện trong danh sách quan lại chính thức dưới thời vua Ang Duong.
[75] Nous n’avons pas traduit l’expression daduol pun qui précède le nom du roi d’Annam. Littéralement, elle signifie «recevoir les mérites». – Chúng tôi không dịch cụm từ daduol pun đứng trước tên vua An Nam. Theo nghĩa đen, nó có nghĩa là “nhận được ân đức”.
[76] Nous n’avons pas pu retrouver le terme vietnamien exact correspondant à cette transcription. – Chúng tôi không thể tìm được từ tiếng Việt chánh xác tương ứng với phiên âm này.
[77] Ce serait une catégorie de mandarins ou des soldats de la ville de Hai Binh. L’auteur précise qu’ils étaient vietnamiens. – Đây là một loại quan lại hay lính tráng ở thành Hai Binh. Tác giả nói rõ họ là người Việt.
[78] C’est la traduction de l’expression khmère pandāy gay. Le premier mot signifie «citadelle», le second «garder, surveiller». – Đây là dịch cụm từ Khmer pandāy gay. Từ đầu có nghĩa là “thành luỹ”, từ thứ hai là”người bảo vệ, người giám sát”.
[79] Une localité non identifiée qui touchait le village khmer de Prêk Svay Mi lequel n’a pu être également identifié. Cependant, la lettre de la reine Ang Mei, l. 22, laisse entendre que le village de Cong Hoa se trouve à côté de Ta Ong en face de la province de Romduol. – Một địa phương không định đoán được nằm cạnh làng Khmer Prêk Svay Mi, vốn cũng không thể định đoán được. Song, lá thơ của Nữ hoàng Ang Mei, dòng thứ 22, cho phép hiểu là làng Cong Hoa nằm cạnh Ta Ong, phía đối diện tỉnh Romduol.
[80] L’emploi du mot khmer mae pour la reine n’est pas correct. Cela nous laisse supposer que le traducteur ne connaissait pas bien la langue khmère et en particulier le vocabulaire royal. Pourtant, dans la suite du message, à la ligne 12, il emploie à juste titre, un mot du vocabulaire royal prah anoch pour nommer les princesses cadettes de la reine Ang Mei. – Việc sử dụng từ Khmer mae để chỉ nữ hoàng là không đúng. Điều này cho thấy người dịch không rành mấy tiếng Khmer và đặc biệt là từ vựng hoàng gia. Thế nhưng, trong phần còn lại của thơ, ở dòng 12, ông đã dùng đúng một chức vị, một từ trong từ vựng hoàng gia prah anoch để chỉ các hoàng muội của Nữ hoàng Ang Mei.
[81] L’expression vietnamienne Ba kvin Chuor désigne la reine Ang Mei. Le mot Kvin Chuor vient du vietnamien quân chua qui signifie «princesse». Puisque Ang Mei n’est pas la troisième fille du roi Ang Eng, mais la plus âgée des trois, le mot ba ne veut pas dire «trois» ou «troisième», il désigne la dignité princière comme dans certains mots tels que bâ chu’ «maître de tout le monde» et bâ vu’o’ng «empereur». – Cụm từ Ba kvin Chuor tiếng Việt chỉ Nữ hoàng Ang Mei. Từ Kvin Chuor do từ quân chua trong tiếng Việt có nghĩa là “công chúa”. Vì Ang Mei không phải là Công chúa thứ ba của vua Ang Eng, mà là Trưởng công chúa của ba người, nên từ ba không có nghĩa là “ba” hay “thứ ba”, mà chỉ phẩm tước hoàng tộc như trong một số từ như bá chu’ là “chủ nhân của cả thế giới” và bá vu’o’ng chỉ “hoàng đế”.
[82] En khmer moderne, le mot bit qui signifie «informer» n’est employé qu’avec les bonzes. Son synonyme, le plus courant est dūl. Cependant, le composé bit dūl n’appartient pas au vocabulaire pour les bonzes, il prend le sens de «rapporter les dires de quelqu’un à quelqu’un d’autre pour se faire bien voir». – Trong tiếng Khmer hiện đại, từ bit có nghĩa là “thông báo” chỉ được dùng với các nhà sư. Từ đồng nghĩa thông dụng nhất của nó là dūl. Nhưng, từ ghép bit dūl không nằm trong vốn từ vựng dành cho các nhà sư, nó mang nghĩa “thuật lại lời của người này cho người kia nghe để lấy lòng “.
[83] L’expression khmère poen punya «demander aide» ou «demander une faveur». Cụ từ Khmer poen punya có nghĩa là ‘khẩn cầu” hay “khẩn ân”.
[84] Le mot thvaeh est la transcription du vietnamien thuí qui signifie «impôts». Từ thvaeh là phiên âm từ Việt thuí có nghĩa là “thuế”.
[85] Ce sont seulement les provinces qui étaient sous son autorité. Cf. supra n. 57. – Đây chỉ là những tỉnh thuộc quyền của Ngài. Xem Chú thích số 57.
[86] La locution orale, auy té est devenue en khmer moderne avei té. – Một khẩu ngữ, auy té trong tiếng Khmer hiện đại là avei té.
[87] Litt. «Parmi les mandarins et le peuple khmer, ceux qui dans le passé ont commis des erreurs». – Nghĩa đen là “Trong số các quan lại và người Khmer, có những người đã sai phạm trong quá khứ.”
[88] Ce sont les gardiens du sol. – Đậy là các Thổ thần.
[89] Ce sont les «Esprits gardiens». – Đây là các “Thần hộ mạng”.
[90] Litt. «message arrive, (que vous) soyez au courant». – Nghĩa đen: “ Một khi thơ này tới, (các ngươi) hãy thực hiện theo”.
[91] Soit le 17 décembre 1843. – Tức ngày 17 tháng Mười hai năm 1843.
Nguồn: Sok Khin. Quelques documents khmers relatifs aux relations entre le Cambodge et l’Annam en 1843. In: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 74, 1985. pp. 403-421;
doi : https://doi.org/10.3406/befeo.1985.1676
https://www.persee.fr/doc/befeo_0336-1519_1985_num_74_1_1676
Bạn có thể thích
-
SƯU THUẾ THUỘC ĐỊA VÀ ẢNH HƯỞNG TRONG XÃ HỘI THỜI THUỘC PHÁP, 1858-1945 (kỳ 2)
-
Những ngày tết cuối cùng của VNCH qua tư liệu báo chí năm 1975 (Phần 2)
-
Hồi ức Phạm Kim Ngọc: Cải cách kinh tế thời Đệ nhị Cộng hoà
-
Những ngày tết cuối cùng của VNCH qua tư liệu báo chí năm 1975 (Phần 1)
-
Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức: Một Đường Lối và Phương Pháp Giáo Dục Tân Tiến của Việt Nam Cộng Hòa
-
Phỏng vấn Nguyễn Khánh Trung: Học về sự Học

Quan hệ Campuchia và Đại Nam năm 1843 qua một số tư liệu tiếng Khmer

SƯU THUẾ THUỘC ĐỊA VÀ ẢNH HƯỞNG TRONG XÃ HỘI THỜI THUỘC PHÁP, 1858-1945 (kỳ 2)

Những ngày tết cuối cùng của VNCH qua tư liệu báo chí năm 1975 (Phần 2)

Hồi ức Phạm Kim Ngọc: Cải cách kinh tế thời Đệ nhị Cộng hoà

Những ngày tết cuối cùng của VNCH qua tư liệu báo chí năm 1975 (Phần 1)

Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần A)

Tư liệu lịch sử: Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ 1972

Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần B)

“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu – Điểm sách “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”

Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần C)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ
-
Kinh tế - Chính trị2 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần A)
-
Tư liệu lịch sử3 năm trước
Tư liệu lịch sử: Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ 1972
-
Kinh tế - Chính trị2 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần B)
-
Lịch sử Việt-Mỹ5 năm trước
“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu – Điểm sách “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”
-
Kinh tế - Chính trị2 năm trước
Kinh tế Việt Nam từ 2010 đến 2023 và con đường phía trước (phần C)
-
Kinh tế - Chính trị6 năm trước
Tư liệu: Thư Trần Phú gửi Quốc tế cộng sản, phê phán Nguyễn Ái Quốc 17-4-1931
-
Kinh tế - Chính trị5 năm trước
Vụ án Nhân văn Giai phẩm: Thụy An, một số phận bi thảm
-
Tư liệu lịch sử2 năm trước
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG