Connect with us

Lịch sử Việt-Mỹ

SƯU THUẾ THUỘC ĐỊA VÀ ẢNH HƯỞNG TRONG XÃ HỘI THỜI THUỘC PHÁP, 1858-1945 (kỳ 2)

Ngô Thị Quý Linh

Published on

Thuế thuộc-địa 

Chính sách thuế thuộc-địa được xem là phương tiện chính để thực hiện các mục tiêu như sau: 

– Trang trải chi phí quân sự và trả lại ngân quỹ Pháp chi phí đã dùng cho việc đánh  chiếm Đông-Pháp; 

– tăng số thu vào ngân quỹ chính quyền Đông-Pháp để bù vào chi phí điều hành thuộc  địa trong ý định thúc đẩy Đông-Pháp đến việc độc lập về tài chính và nâng giá trị kinh tế của các thuộc địa Pháp; 

– thúc đẩy nông dân phải tăng sức sản xuất trên đất đai của họ và dựa trên yếu tố này chính phủ Đông-Pháp thực hiện kế hoạch xuất cảng; 

– nếu không sản xuất đủ để đóng thuế, người dân bản xứ tiểu nông sẽ từ bỏ nghề nông  để tìm việc làm khác. Điều này giải quyết nạn thiếu nhân lực cần cho các công ti canh  nông (đồn điền) và khoáng sản (hầm mỏ) của giới thực dân Âu Tây. 

– vì phải đóng thuế bằng tiền, người dân sẽ phải tham gia vào nền kinh tế tiền tệ của  chính phủ Đông-Pháp. 

Trong thời gian đầu chiếm đóng Nam-kỳ, các đô-đốc đánh thuế điền thổ và thuế thân  nặng hơn dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1864, thuế điền thổ tương đương 5 phật-lăng một  mẫu, năm 1873 là 10 phật-lăng một mẫu. Thuế thân từ 2 phật-lăng mỗi dân đinh tăng lên 10  phật-lăng, 16 phật-lăng cho người muốn được miễn sưu dịch. Các đô-đốc đặt ra một số thuế khác  như thuế thuyền bè, thuế môn bài, thuế muối, thuế Hoa-kiều lưu-trú, v.v… Nhờ có thêm nhiều  thứ thuế, năm 1876, Nam-kỳ có thể nộp cho ngân khố Pháp số tiền thặng thu là 2.200.000 phật 

lăng. Nhờ có thuế thặng dư, đô-đốc Le Myre de Vilers bớt gánh nặng cho nông dân bằng cách  giảm thuế điền thổ xuống ba phật-lăng và một phật-lăng tùy theo phẩm chất của ruộng; thuế thân  được định là ba phật-lăng thay vì 10 phật-lăng. Để tăng thu nhập vào ngân quỹ chính phủ, Le  Myre de Vilers đánh thuế xuất cảng gạo. Giới đại thương gia là giới phải chịu thuế xuất cảng,  thay cho nông dân phải chịu thuế điền thổ cao.  

Năm 1891, quân phí bình định vẫn còn cao vì công cuộc dẹp yên các nhóm Cần-vương  và khởi nghĩa tốn kém hơn cuộc chinh phục lúc ban đầu. De Lanessan được gửi sang Đông-Pháp với một quyền hạn khá rộng rãi để ổn định Đông-Pháp mà không phải bòn rút thêm từ ngân sách  nước Pháp. Khi Lanessan đến Hà-nội, ngân sách Bắc-kỳ hụt 12 triệu quan Pháp. Trong các xứ Đông-Pháp, chỉ có Nam-kỳ tương đối trù phú nhất nhờ xuất cảng gạo.

Để cứu vãn tình thế rối loạn khi ấy ở Bắc-kỳ, de Lanessan dự định cải tổ theo các tôn chỉ sau đây: 

– Tôn trọng thể chế xã hội của người bản xứ, tôn trọng tín ngưỡng của người bản xứ,  tôn trọng sĩ phu; 

– phản đối chính sách thực dân bằng tôn giáo (“colonisation par la religion”) vì cho  rằng chính sách này có hại về tâm lý và ảnh hưởng đến sự mở mang kinh tế; – cần một chính sách bảo hộ đồng nhất giúp dân bản xứ an cư lạc nghiệp; – chuyển cách cai trị trực tiếp ra cách cai trị gián tiếp; công nhận chủ quyền của Hoàng đế An-Nam trên xứ Bắc-kỳ và uy quyền đối với các quan; sử dụng giới quan lại vào  công tác bình định vì họ được dân chúng hỗ trợ; 

– phản đối việc áp dụng Code Civile của Pháp cho người bản xứ vì bộ luật này có nhiều  điều trái ngược với tập tục bản xứ, nhất là những điều liên quan đến gia đình, sự thừa  kế và cộng đồng. 

Mặc dù có những khó khăn về hành chánh và phương tiện tài chánh eo hẹp, de Lanessan  đã thực hiện được những việc sau đây: 

– khởi công thực hiện đường xe lửa đến Lạng-sơn; 

– thành lập các hải cảng; 

– khuyến khích thương gia và những người khẩn hoang; 

– cho làm 350 cây số đường lộ ở đồng bằng Bắc-kỳ trong hai năm 1891, 1892. Trong bốn năm đương nhiệm của Lanessan, thuế thu nhập gia tăng từ 3.760.000 đến  6.600.000 đồng bạc, quan thuế tăng từ 820.000 đồng bạc lên 2.040.000 đồng bạc. Công việc đang tiến hành tốt đẹp thì Lanessan bị gọi về Pháp (1894). 

Mọi sự phát triển ngưng trệ trong ba năm cho đến khi Paul Doumer được bổ nhiệm sang  Đông-Pháp (1897).  

Paul Doumer từng có kinh nghiệm điều hành tài chánh, giữ chức vụ tổng-trưởng tài chánh trong chính phủ Bourgeois. Doumer được gửi đi tìm hiểu về ngân sách Bắc-kỳ vào năm  1895 khi tình trạng xứ Bắc-kỳ gần như suy sụp. 

Tìm hiểu toàn cảnh của vấn đề Đông-Pháp, Doumer kết luận: 

“Chính vì thiếu tổ chức công quyền và thiếu tài chánh mà xứ này bị suy yếu, và chính vì sự kiện không có hệ thống kinh tế đã cản trở sự phát triển các tài nguyên. Do đó, cần phải tổ chức Đông-Pháp và thiết lập hệ thống kinh tế – một chương trình tổng quát có thể được thực hiện  khi hoàn cảnh cho phép.” 

Khi được bổ làm toàn-quyền Đông-Pháp, Doumer bắt tay ngay vào việc tổ chức hành  chánh để thực hiện chương trình phát triển kinh tế Đông-Pháp vì cho rằng: “Công tác kinh tế,  mục tiêu chính yếu của việc đi chiếm thuộc địa, chỉ mới bắt đầu sơ khởi ở Đông-Pháp.”

Muốn cho phủ toàn-quyền có thực quyền chỉ huy và điều hành các cơ quan công quyền,  Doumer đặt ra Nha tổng giám-đốc Quan-thuế và Quan-quản-thuế, Nha tổng giám-đốc Bưu-điện  và Điện-thoại, Nha tổng giám-đốc Nông-lâm-chính và Thương-mại. 

Về tài chính, ngân sách chung cho Đông-Pháp được thiết lập năm 1898, từ đó Đông-Pháp  trở thành một thực thể chính thức có phương tiện để hoạt động. Theo sắc luật 31-7-1898, ngân  sách địa phương được thiết lập bằng thuế trực thâu, ngân sách Đông-Pháp bằng thuế công-quản  và thuế đoan. 

Theo dụ ngày 15 tháng 8 năm 1898 do vua Thành-thái ký, chính phủ bảo-hộ giữ quyền  quản trị tài chính của Trung-kỳ và trao lại triều đình một số tiền bằng với số thu của triều đình  vào các năm trước. 

Để làm tăng ngân sách Đông-Pháp, ngoài các loại thuế đã có, Doumer đặt ra nhiều thứ thuế mới: thuế chợ, thuế đò, thuế kiểm lâm, thuế con tem, v.v… Các thứ thuế cũ đều gia tăng.  Nhưng đem lợi về cho ngân quỹ Đông-Pháp nhiều nhất đồng thời gây nhiều bất mãn nhất cho  dân bản xứ chính là ngành quan-quản (công-quản) thuốc phiện, rượu và muối. 

Tem thuế Hà-nội Tem thuế An-nam

  1. Thuế thân ở Nam-kỳ và Bắc-kỳ 

Trước năm 1880, ở các làng Nam-kỳ, chỉ có dân nội tịch mới phải đóng thuế thân. Từ năm 1880, có sắc luật bắt tất cả dân đinh bản xứ từ 18 đến 60 tuổi phải đóng thuế như nhau. Từ năm 1902 trở đi, mỗi người dân làng phải có một thẻ căn cước trên đó có in dấu một ngón tay và những chi tiết cá nhân; nếu ai không có thẻ sẽ bị phạt tiền và/hoặc tù. Vì có nhiều sự lạm dụng,  

từ năm 1918, mọi thẻ căn cước phải có hình, in dấu hai hoặc ba ngón tay. Trong những năm  khủng hoảng kinh tế như năm 1930, chính phủ thuộc địa gặp khó khăn trong việc thu thuế.  Khoảng 20% dân chúng Nam-kỳ trong tuổi đóng thuế từ chối nộp thuế dù bị đe dọa phạt tiền  hay tù. 

Khởi đầu, mục đích chính của việc đánh thuế là tăng số thu vào ngân quỹ để trang trải chi  phí cho sự xâm chiếm thuộc địa. Trong công cuộc bình định Bắc-kỳ, người Pháp phải chi phí nhiều về quân sự để dẹp các nhóm khởi nghĩa. Sau khi Đông-Pháp được thành lập, hai xứ Trung kỳ và Bắc-kỳ có ngân sách riêng. Từ năm 1892, chính phủ mẫu-quốc không bù một khoản chi  phí nào trong việc điều hành, chỉ trừ có quân phí.

Giữa năm 1890 và 1896, thuế ở Bắc-kỳ tăng gấp đôi. Từ năm 1897 đến năm 1918, chính  phủ tăng thuế thân lên gấp năm lần, từ 0,50 đồng bạc đến 2,50 đồng bạc. 

Năm 1908, dân chúng Quảng-nam đi biểu tình kéo nhau đến tòa sứ Quảng-nam để “xin  xâu giảm thuế” đủ biết lúc bấy giờ sưu cao thuế nặng như thế nào đối với người dân. Từ Quảng nam, phong trào lan sang nhiều tỉnh khác ở Trung như Quảng-ngãi, Bình-định, Phú-yên, Khánh hòa, Bình-thuận, Thừa-thiên, Quảng-trị, Thanh Nghệ Tĩnh, tạo nên cuộc “Trung-kỳ dân-biến”  lớn lao chưa từng thấy ở Trung-kỳ.  

Cùng người dân nghèo 

Hỡi những kẻ dân ta nghèo đói 

Có biết rằng nông-nỗi vì ai? 

Cả năm đòn gánh đè vai, 

Mồ hôi nước mắt không tài kiếm ra. 

Kìa lãnh vé các tòa các sở, 

Nào nộp tiền các chợ, các ty. 

Mấy lần thuế lại thuế đi, 

Tính cho đủ thuế còn gì mà ăn. 

Con với vợ mặt nhăn vì đói, 

Mà thằng Tây cứ trói lấy tiền. 

Cực thay sưu nặng thuế phiền, 

Róc cho đến chết lợi quyền chưa tha. 

Mình cá thịt, Tây là dao thớt, 

Sống làm sao cho thoát tay người? 

Than ôi! sống một kiếp người, 

Thà rằng chết quách cái đời buồn nhơ… 

Liệu đứng dậy mở cờ cách mạng, 

Thoát ra ngoài tình trạng bấy nay. 

May ra sống được là hay, 

Chẳng may thác cũng là tay anh hùng. 

Một cái thác lông hồng núi Thái,  

Tính đôi đường phải trái mà theo. 

Hai mươi lăm triệu đồng bào,  

Trên đường cách mạng ào-ào tiến lên. 

Nước nhà cơ-nghiệp vẹn tuyền, 

Việt-Nam ta giữ lợi quyền của ta. 

Mấy lời thuận miệng ngâm nga, 

Ai ôi! Xin nhớ bài ca hợp đoàn.” 

(Lê-Xuân-Giáo. “Cái chết bi thảm của cụ Giải-Huân với thời cuộc nước nhà”,  Văn-Hóa Tập-san số 2 năm 1970)

Bài thơ trên của Lê Văn Huân, một sĩ tử đỗ thủ khoa trường Nghệ-an năm 1906 và hoạt  động chính trị trong đảng Tân-Việt trong những năm 1926-1929, cho thấy sự oán ghét chính phủ bảo-hộ trong việc đặt ra các thứ thuế khóa ảnh hưởng đến đời sống người dân nghèo. Lời thơ mộc mạc, giản dị cốt cho người dân hiểu hầu tìm cách thoát ra cảnh khổ của họ bằng cách “mở cờ cách mạng” và khuyến khích: “Hai mươi lăm triệu đồng bào, Trên đường cách mạng ào-ào  tiến lên”. 

Ngoài thuế, dân chúng còn phải chịu xâu (sưu). Thuế thân nộp cho chính phủ, có giá nhất  định, còn xâu thì thay đổi, co giãn. Xâu là số tiền đưa cho lý hương trong làng để tìm người khác  làm việc công ích giùm mình. Chẳng hạn, mỗi năm một người phải làm việc không lương cho  chính phủ khoảng bốn ngày, nhưng lý hương tăng lên tám hay mười hai ngày. Những người yếu  sức hoặc vì không thể đi làm xa, nơi rừng sâu nước độc, phải trả một số tiền để người khác làm  thế. 

Một nhân chứng của thời gian đó đã kể lại về việc sưu thuế như sau: 

“Nếu không nộp số tiền ấy thì hình phạt hết sức nặng nề. Chính thời tôi lớn lên,  tôi còn thấy nỗi khiếp sợ của dân làng khi đến mùa thuế và người ta hành hạ vô nhân đạo  những người “trốn xâu lậu thuế” như thế nào! Mà xâu không phải chỉ lý hương ăn. Chính  các quan lại chủ mưu trong việc ăn. Cuộc kháng sưu vĩ đại 1908 xảy tại Quảng-Nam, kéo  luôn cả hàng chục tỉnh theo, dân chúng bị bắn, các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh  Thúc Kháng bị lưu đày, các liệt-sĩ như Trần Quý Cáp bị chém, nhân sĩ bị thảm sát, bị làm  tù, làm nhục kể có hàng vạn! Mà duyên do cũng vì xâu, chủ yếu là việc đào vét sông  Câu-Nhi. Ít ra, nếu không phải như thế là lý do phát xuất tiên khởi tại huyện Đại-Lộc, thì nó vẫn là cuộc kháng sưu (chống xâu) và xuống tới Điện-Bàn, nó nổ bùng chính tại việc  bắt xâu đào sông Câu-Nhi. Trong quyển Trung Kỳ dân biến thỉ Mạc Ký, cụ Phan Châu  Trinh cho biết dân chúng phủ Điện-Bàn đã khiêng quan tri phủ sở tại dìm xuống nước  gần chết! Chừng đó, đủ để người đọc thấy sự phẫn nộ của dân đến mức độ nào vào cái  thời mà người ta sợ quan như thần, xem quan như cha mẹ!” 

(Nguyễn Văn Xuân. “Theo dõi sự phát-xuất và phát-triển của một câu ca-dao”, Văn-Hóa  Nguyệt-san tháng 11 và 12 năm 1967) 

Cách đánh thuế của chính phủ gây ra nhiều sự bất bình vì người Âu Tây và những người  làm việc hoặc hợp tác với Pháp được miễn thuế, đồng thời tạo ra sự bất công giữa những người  dân ở các làng. Thuế thân là thuế có định suất (impôt de quotité), nhưng áp dụng ở các làng như thuế quân bổ (impôt de répartition).  

Theo như trước năm 1921, dân nội tịch được hưởng quyền lợi trong làng nên phải nộp hai đồng rưỡi (2,50$), ngoại tịch nộp ba hào (0,30$). Tuy vậy làng nào cũng đem cộng cái tổng số thuế đinh trong hàng xã rồi chiểu số đinh mà chia đều ra. Thành thử trên lý thuyết thuế thân có định giá mà trên thực tế không nhất định. Theo lối thâu này, người đóng thuế không bao giờ biết rõ mỗi năm mình phải nộp bao nhiêu.

Việc cải ngạch thuế thân ở Bắc-kỳ và Trung-kỳ đặt ra một hạng thuế thân chung cho mọi  người, từ 18 đến 60 tuổi, không phân nội ngoại như trước. Giá được định đồng đều là 2,50$ và thi hành từ đầu năm 1921. Ở Nam-kỳ thuế thân là 7,50$ cho mỗi dân đinh. Giới thượng lưu  không được miễn trừ thuế vì đóng thuế là một nghĩa vụ dân phải nộp sưu thuế để giúp vào những  kinh phí chung. Chỉ những người nghèo đói tàn tật mới được miễn trừ, cùng các hạng binh lính  (lính tập, khố xanh, cơ, lệ, tuần thành, v.v…) 

Cách đóng thuế như vậy vẫn chưa được xem là công bằng vì số thuế đóng không theo sự gia tăng về số lợi thu nhập. 

Mãi đến năm 1939, thống-sứ Bắc-kỳ mới ký nghị định chia thuế thân thành 14 hạng tùy  theo số lương bổng hoặc hoa lợi. Đây là cách trung gian để đi đến cách đóng thuế hoa lợi theo tỷ lệ. 

Thay đổi lớn nhất về thuế khóa do toàn-quyền Paul Doumer (1897-1902) khởi xướng để cải hoán tình trạng ngân sách thiếu hụt của guồng máy hành chánh. Ngân sách riêng của năm xứ trong Đông-Pháp (Nam-kỳ, Bắc-kỳ, Trung-kỳ, Căm-bốt, Ai-lao) bị tách ra khỏi tổng ngân sách  của Đông-Pháp. Mỗi xứ phải độc lập về kinh tế tài chính và giảm những sự phung phí về hành  chánh và trùng hợp trong việc thu thuế. 

Chính phủ thuộc-địa giữ độc quyền mua bán một số phẩm vật như thuốc lá, đường, diêm  quẹt, rượu, thuốc phiện và muối. Các loại thuế gián thâu về rượu, thuốc phiện và muối bị gọi là “con quái vật ba đầu của công-quản”. Gần phân nửa cho đến ba phần tư của ngân sách Đông Pháp đến từ các công-quản (régies) về rượu, thuốc phiện và muối. 

  1. Công-quản rượu 

Trước khi người Pháp đến, dân quê chưng cất rượu đế để dùng trong gia đình và vào dịp  lễ trong làng. Năm 1871, vua Dực-tông đặt ra một phân thuế thấp trên rượu để có phương tiện tài  trợ việc kháng Pháp. 

Sau khi chiếm Việt Nam, chính phủ thuộc-địa đặt ra thuế rượu.  

Ở Nam-kỳ, một người Hoa được chính phủ giao cho việc cung cấp rượu Âu Tây và một  người khác độc quyền nhập cảng, sản xuất và phân phối các loại rượu Á đông. Thu nhập từ rượu  tăng từ 126.000 đồng năm 1893 lên hơn một triệu năm 1901. Năm 1898, công ti Auguste  Fontaine Distilleries mua được bằng sáng chế nấu rượu của bác sĩ Albert Calmette, dùng gạo chế 

ra rượu và tăng gấp đôi số lượng rượu sản xuất. Từ cuối năm 1901, chính phủ trao độc quyền  mười năm bán rượu ở Bắc-kỳ và Trung-kỳ cho công ti Compagnie générale du Tonkin et du  Nord-Annam, cũng giữ độc quyền về muối và thuốc phiện.  

Năm 1902, chính phủ giữ độc quyền thu mua tất cả rượu do người dân làm ra và bán lại  cho người tiêu thụ bằng một giá nhất định cao hơn.  

Năm 1903, độc quyền mười năm cung cấp rượu ở Bắc-kỳ và Trung-kỳ được giao cho hai  công ti Pháp là Société Française des Distilleries de l’Indochine (nhóm Fontaine, Calmette,  Debeaux) và Société des Distilleries du Tonkin (nhóm Fisher). Số lợi thu về năm 1909 của nhóm  Fontaine khoảng 2.300.000 quan Pháp giúp cho công ti Société des Distilleries de l’Indochine trở nên một nhóm kinh doanh có thế lực nhất lúc bấy giờ. Năm 1913, nhóm Fontaine giữ độc quyền  về rượu cho đến năm 1933 khi độc quyền sản xuất rượu bị bãi bỏ.  

Việc bán rượu được tổ chức như sau: công ti là tổng cục; tại các tỉnh, mỗi tỉnh có một cục  tổng phát hành (débitant général) đại diện công ti; cục tổng phát hành bán rượu cho “cờ bài lớn”  (débitant de gros), “cờ bài lớn” bán cho các “cờ bài nhỏ” (débitant de détail) là nơi bán lẻ cho  dân chúng.  

Société Française des Distilleries de l’Indochine có bốn xưởng nấu rượu ty ở Hà-nội,  Nam-định, Hải-dương và Chợ-lớn. Xưởng nấu rượu Hà-nội nằm ở khu Văn-điển do giám-đốc  tên là Fontaine trông coi cho nên dân Hà-nội còn gọi rượu ty là rượu Văn-điển hay rượu Phông ten. 

https://entreprises-coloniales.fr/inde-indochine/SFDIC-Tonkin 

Chính phủ bảo-hộ tính số đầu người mỗi tỉnh mỗi làng mà giao rượu cho công chức và quan lại bắt dân nhận rượu ty và trả tiền cho chính phủ. Các công-sứ, tri-phủ, tri-huyện được  điểm tốt nếu số rượu trong tỉnh hạt của họ cao.

Chế độ công-quản rượu gây ra nhiều xáo trộn và tù tội cho dân chúng. Khoảng thập niên  1910, trong Nam ngoài Bắc nơi nào cũng có người bị bắt về tội nấu rượu lậu. Ký giả Chương Dân* kể rằng: 

“Năm 1908, tôi có ở tại tòa cảnh sát Hà-nội, thấy những khổ sai ở đó, hỏi ra thì người nào cũng là “tù rượu” cả. Một năm mới rồi đây, tôi vào ra đường xe-hỏa Hanoi Vinh là sáu lần, mà lần nào cũng có gặp “tù rượu” bị giải đi trên xe. (“Về việc cấm rượu  ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta”, Nam-phong Mai 1919) 

*Chương-Dân là bút hiệu của nhà báo Phan Khôi (1887-1959) 

Báo Phụ-nữ Tân-văn (13 Décembre 1934) có đăng một bài viết ngắn về vấn đề rượu ở Trung-kỳ:

“Ở ngoài Trung-kỳ chừng một năm nay, đâu đâu cũng nghe nói việc rượu. Hình  như trên thì quan, dưới thì dân, không còn có vấn-đề gì đáng quan-tâm nữa hết, chỉ có vấn-đề rượu mà thôi. 

Mấy tháng trước, trên các tờ báo ở ngoài, thấy có nhiều tin là người ta bắt mỗi  làng bao nhiêu dân tráng, mỗi tên phải mua rượu của công-ty mà uống, có nơi thì mỗi tên  dân sáu lít, có nơi thì mỗi tên dân tám lít, trong một năm. 

Quan thì sợ dân không chịu uống rượu nên lo làm thế nào cho dân uống; còn dân  vì nghèo không thể uống rượu được nên kêu ca; bởi vậy mà vấn-đề rượu thành ra một  vấn-đề rất nhộn-nhàng ở xứ ấy. 

Mới đây ở Quảng-nam quan trên lại có trát sức về việc rượu: 

“Khi trong làng có người nấu hay bán rượu lậu thì tộc-biểu, lý-trưởng, hương kiểm đều phải bị liên-can.” 

Như thế, chắc việc rượu ở Trung-kỳ còn thêm nhộn-nhàng nữa, chưa hết đâu. Một  đằng đi gán cho dân mỗi tên sáu hay tám lít, một đằng đi bắt những tộc-biểu, lý-trưởng,  hương-kiểm về bỏ tù, cửa quan thành ra nhiều việc quá. 

Mà có lẽ dân Trung-kỳ là thứ dân ghiền rượu lắm hay sao chớ. Mỗi người đã bị gán cho sáu hay tám lít rượu rồi, còn chưa say tít-cù-đèn sao mà phải nấu thêm rượu lậu  để kẻ khác bị liên-can?” 

Dân chúng bị khổ vì nạn bắt rượu lậu, khổ đến nỗi có một viên chức người Pháp tên Jean  Marquet làm trong sở Thương-chính đã viết quyển tiểu thuyết De la rizière à la montagne (1920)  vì ông đã từng chứng kiến cảnh thương tâm của người dân quê Bắc-kỳ bị bắt vì rượu lậu. Sách tả tình cảnh một người nhà quê bị vu cáo nấu rượu lậu, nên bị tù hết nơi này đến nơi khác, kết cuộc  lên làm phu mỏ trên mạn ngược và chết ở đó. 

Cuối năm 1931, Đại-hội-nghị kinh-tế tài-chính Đông-dương khai mạc ở Sài-gòn đã phải  bàn đến chế độ rượu ở Bắc-kỳ và phía bắc Trung-kỳ, ngoài các việc như xét các sổ dự toán cho  năm 1932, chương trình công-thải Đông-dương và sửa đổi chế độ công-quản muối Đông-dương.  

Chính phủ đưa ra hai dự thảo về chế độ công-quản rượu: một là cho dân chúng tự do nấu  rượu theo như lệ đang thi hành tại Nam-kỳ, nhưng việc nấu rượu phải do sở Thương-chính  thường trực kiểm soát; hai là để cho một công ti Pháp-Việt lĩnh trưng rượu ty. 

Đại-hội-nghị này gồm khoảng năm mươi người trong đó chỉ có mười lăm người Việt của  cả ba kỳ, người Pháp chiếm đa số, một vài người Miên, người Lào. Có cả sự hiện diện của đại  diện công ti rượu Hà-nội, một công ti có thế lực rất lớn, đã hưởng độc quyền về nấu rượu trong  ba mươi năm qua. Chính phủ đã nhờ độc quyền này mà thu về mỗi năm ba bốn triệu bạc. Theo tờ 

trình của quan chánh sở Tài-chính, Nhà-nước (chính phủ) ký hợp đồng với công ti Pháp nấu rượu  ở Đông-dương, hợp đồng này hết hạn ngày 11 tháng Bảy năm 1933. 

Trong buổi họp Đại-hội-đồng, những nhân vật quan trọng đều đến dự: có phó toàn-quyền  Graffeuil, chánh tài-chính Diethelm, chánh các tổng-cục phủ toàn-quyền, và đại biểu các báo  Tây ở Sài-gòn. Vì xung đột quyền lợi nên Bernhardt, chủ công ti rượu tự ý rút lui, không bỏ phiếu khi đầu phiếu. Đa số nghị-viên Pháp bênh vực độc quyền nấu rượu. Bên nghị-viên Việt, lý do đầu tiên được nêu ra để chống độc quyền rượu là tình cảnh khốn khổ trong dân gian, như viên  chức Pháp tên Jean Marquet làm cho sở Thương-chính đã viết trong tiểu thuyết De la Rizière à la  

Montagne. Phạm Quỳnh, chủ-bút báo Nam-phong thuyết phục toàn thể nghị-viên trong Đại-hội-nghị, đã lên tiếng trong một bài diễn thuyết dài. Theo Phạm Quỳnh, vấn đề rượu không phải chỉ liên quan đến việc thuế khóa mà còn liên  hệ đến chính trị. Ích lợi chung trong vấn đề này là làm sao yên được lòng dân. Ông nhận thấy  việc bắt rượu lậu gây lắm phiền nhiễu trong dân gian, nhất là vì cách làm việc của sở Thương chính. Tuy số viên chức Thương-chính không nhiều, nhưng họ không có tư cách, lại được  thưởng 10% tiền hoa hồng khi bắt được một vụ rượu lậu càng khiến cho họ dễ làm bậy để lãnh  tiền. Phạm Quỳnh giải thích: 

“Người nhà quê bao giờ cũng vẫn cho sự cấm nấu rượu là một sự hà-khắc, và kêu  ca về việc trừng-phạt bắt-bớ không công-bằng. Gia-chi-dĩ sở Thương-chính lại dùng  những tuần-đinh chọn trong đám mạt-lưu, đã từng can án, thành ra gây nên ở xứ này cái  thói thù-hằn vu-cáo, dọa-nạt lấy tiền, ban đêm vứt bã rượu vào nhà đất người ta, là những  cách khiến cho dân quê ngồi không yên-ổn, đứng không vững-vàng, lúc nào cũng ngay 

ngáy lo sợ nhà bị khám, thân bị giam, của-cải bị tịch, khuynh-gia bại-sản chỉ vì một tên  tuần-đinh Thương-chính đêm hôm đem vứt bã rượu vào ruộng mình, dù ruộng ấy cách xa  nhà đến bao nhiêu cây số cũng vậy.” 

(“Vấn-đề rượu ở Đại-hội-nghị”, Nam-phong Janvier 1932) 

Phạm Quỳnh cho biết sự trừng phạt nấu rượu lậu rất nặng. Những người trong làng, nhất  là hương chức, phải chịu liên đới trách nhiệm. 

“Phàm ai cất rượu lậu thì phải phạt tiền từ 200 đến 2000$ và phạt tù từ 15 ngày  đến ba năm, hay là trong hai thứ ấy phải phạt một. Ngoại-giả những khí-cụ dùng để cất  rượu, hay những cơm rượu đã bắt được, đều bị sở Thương-chính tịch-một. Phàm người  nào bị bắt có mang ít nhiều rượu lậu mà không thể nói rõ được rằng rượu ấy ở đâu ra, thì 

phải phạt tiền tự 25 đến 500 đồng và phạt tù từ tám ngày đến ba năm, hay là trong hai thứ ấy phải phạt một. Nhà-nước lại bắt những hương-chức các làng phải chịu trách-nhiệm về việc những người can rượu lậu, nếu rõ rằng các hương-chức ấy không làm gì để ngăn cấm việc nấu rượu lậu trước khi phát-giác ra. Lại nếu các hương-chức không chịu giúp  

sức cho người sở Thương-chính trong việc khám xét bắt-bớ, hay để cho đánh tháo được  các tang-vật, thì cũng phải chịu trách-nhiệm phạt tiền, không kể khi có kháng-cự lại các  viên-chức trong khi làm việc, thì lại thêm một tội khác, phải chịu hình-phạt khác nữa. Lại  như khi khám thấy rượu lậu ở chỗ đất công của làng, dù đất ấy làng bỏ hoang hay ở xa  làng tới 10 cây-lô-mét, làng ấy cũng phải chịu trách-nhiệm vào đó”.  

Chính phủ độc quyền bán chỉ một thứ rượu ty và bắt dân phải tiêu thụ thứ rượu mà họ không thích, có nghĩa là chính phủ tước đoạt của dân một cái quyền tự do (tự do ăn uống). Ngoài  ra, chính phủ lại còn lấy bớt của dân một nghề vì khi trước có nhiều làng làm nghề nấu rượu nay bỗng dưng mất cách sinh sống, họ không biết làm nghề gì. Nghề nấu rượu có một nghề phụ là nuôi lợn, vì người dân quê có thể nuôi lợn bằng bỗng rượu. Lợn có thể đem bán lấy lợi hoặc đem  giết thịt. Người dân quê họa hoằn mới được ăn thịt, nuôi lợn có thêm thức ăn cho gia đình. Vì 

những cái lợi ấy, người dân quê cứ tiếp tục nấu rượu lậu dù biết là phải tù tội. Công-quản rượu đã khiến dân chúng bất mãn từ 30 năm nay. Những nhóm khởi nghĩa  chống Pháp đã lợi dụng vấn đề công-quản để tuyên truyền kêu gọi dân chúng yểm trợ họ. Công quản rượu là một vấn đề thuộc về thuế khóa, nhưng vì làm mất lòng dân nên đã dần dần trở thành một vấn đề có tính cách chính trị. 

Một số nghị-viên Pháp như bác-sĩ Yersin, Labaste, Guyonnet, Marinetti, đồng ý với  Phạm Quỳnh. Luật-sư Foray, chánh tiểu-ban xét việc rượu, cũng đồng ý và đưa thêm một lý do  nữa để khuyên chính phủ nên bãi bỏ độc quyền sản xuất rượu. Ông nghĩ rằng nếu chính phủ trao độc quyền nấu rượu cho một công ti thì chính phủ bị bó buộc trong một khoảng thời gian 10 đến  15 năm. Nếu lúc ấy, vì một lẽ gì, chính phủ đổi ý, chính phủ sẽ phải bồi thường cho công ti. 

Sau phần thảo luận của các nghị-viên, Đại-hội-đồng bỏ phiếu kín. Kết quả được công bố,  công-quản rượu được đa số nghị-viên đồng ý bãi bỏ. 

Chính phủ dần dần bãi bỏ việc ép mua rượu từ sau Đại-hội-nghị kinh-tế tài-chính Đông dương 1931. Từ thập niên 1930, việc kiểm soát nhà để tìm rượu nấu lậu ít dần, và việc chưng cất  rượu vào dịp Tết Nguyên-đán được chấp nhận. Những người bán rượu phải có môn bài. Tuy vậy,  Société des Distilleries de l’Indochine vẫn cung cấp 70% tổng số rượu sản xuất năm 1941. 

  1. Công-quản thuốc phiện 

Đời Tự-Đức (1847-1883), luật nghiêm cấm kẻ nghiện nha phiến không được làm việc  công từ chức lý dịch đến quan trường vì triều đình nhận thấy người nghiện thuốc phiện yếu sức sinh lười, lại thêm tốn phí mua thuốc dễ nhũng lạm. Thời thuộc Pháp, người làm việc quan  nghiện thuốc phiện được dung túng, cả thầy giáo cũng hút thuốc phiện vì chính phủ Đông-Pháp  độc quyền mua và bán a-phiến.  

Công-quản thuốc phiện đem lại nhiều tiền nhất cho ngân quỹ Đông-dương. Năm 1861,  độc quyền mua bán thuốc phiện được giao cho hai nhóm thực dân Pháp. Năm 1864, các trại  trồng thuốc phiện được cho đấu giá và bán cho “bang” Hoa-thương Quảng-đông, năm 1865 cho  “bang” Phúc-kiến. Năm 1879, mặc dù có thuốc phiện lậu buôn qua cửa ngõ biên giới Hoa-Việt,  thuốc phiện vẫn đem lợi về nhiều nhất cho công quỹ. Năm 1881, thuốc phiện trở thành công quản của chính phủ.  

Ở trong nước, các tỉnh miền thượng du Bắc-kỳ như Lai-châu, Yên-bái, Lào-kay, Hà giang, v.v… là nơi trồng rất nhiều cây nha phiến mà vẫn không đủ nhu cầu, phải nhập cảng thêm  từ Vân-nam và Ấn-độ. Thuốc phiện nguyên chất nhập cảng được bào chế dưới sự điều khiển của  chính phủ. Ở Hà-nội và Sài-gòn, mỗi nơi đều có một trung tâm bào chế và phân phối thuốc phiện. Thuốc phiện, sau khi trải qua nhiều giai đoạn chế biến, được đóng thành hộp với cân  lượng và phẩm chất khác nhau: loại thượng hạng để biếu vua Căm-bốt và vua nhà Nguyễn vào  dịp Giáng-sinh để làm quà; loại rẻ nhất để bán cho dân lao động, kéo xe, … 

Thuốc phiện được bán qua trung gian các nhà có môn bài Régie d’Opium (R.O.). Mặc dù có thuốc phiện bán lậu, thường là qua các Hoa-thương, số thu nhập của chính phủ thuộc địa về thuốc phiện vẫn cao. Một vài người Pháp thú nhận rằng công-quản thuốc phiện là “nỗi nhục của  Đông-dương” (the shame of Indo-china).  

Giữa năm 1926 và 1929, tổng số lượng thuốc phiện sử dụng tăng từ 59 tấn đến gần 72  tấn. Người ta phỏng đoán năm 1926 có khoảng ba phần tư trong số 18.000 người Pháp ở Đông dương, một số người Hoa, người Ấn, và rất nhiều đàn ông Việt, cùng một số ít phụ nữ Việt  nghiện thuốc phiện. 

Vì đặt ra công-quản thuốc phiện, cho nên chính phủ cho dân chúng tự do hút thuốc phiện.  Sự việc này đưa đến một hậu quả rất tai hại cho xã hội. Có những người trí thức, những người  giỏi kinh doanh, những người khoẻ mạnh, chỉ vì nghiện thuốc phiện mà trở nên bạc nhược, sa  sút, yếu đuối, hèn hạ, phải ăn cắp hoặc ăn xin để có tiền hút thuốc phiện. Trong giới văn thi sĩ làm bạn với “ả phù-dung”, có thể kể Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng,  v.v… 

Nhà văn Nguyễn Vỹ biết Lưu Trọng Lư khi nhà thơ mới xuất bản quyển Người Sơn  

Nhân. Lúc đó Lưu thi sĩ chưa nghiện thuốc phiện. Chỉ khi thi sĩ viết cho Tiểu Thuyết Thứ Bảy ,  

được tòa soạn trả tiền nhiều và đều đặn, có dư dả tiền nên mới bắt đầu hút thuốc phiện và từ đó  đâm ra nghiện. 

Nguyễn Vỹ kể về cảnh nghiện của Lưu Trọng Lư như sau: 

“Một đêm, vào cuối năm 1939, bắt đầu chiến-tranh, tôi đang ngủ trên một gác trọ của một người bạn ở phố Quan-Thánh. Lúc này tôi đang trốn tránh vì nghe tin mật-thám  Pháp muốn kiếm bắt tôi. Bỗng dưng, gần 2 giờ sáng, có tiếng gõ cửa ầm ầm. Bạn tôi ra  bao lơn ngó xuống đường cái, thấy một bóng người ngồi trên xe kéo, gục đầu vào thành  xe. Bạn tôi lên tiếng hỏi: 

– Ai hỏi gì đấy? 

Anh phu xe ngước mặt lên đáp: 

– Có một ông say rượu, bạn ông, muốn vào ngủ nhờ. 

– Bạn tôi là ai? 

Anh xe không biết tên. Người ngồi gục đầu trên xe cũng không trả lời. Bạn tôi hỏi ý-kiến tôi, tôi bảo anh ấy cứ xuống mở cửa xem ai. Tôi đã đề-phòng mọi bất-trắc, thì một  lúc lâu bạn tôi dìu lên cầu thang một xác người bèo nhèo, không cử-động. Tôi đến gần  xem: Lưu-trọng-Lư. (…) 

Bấy giờ tôi mới ngửi thấy sặc mùi thuốc phiện. Tôi biết Lưu-trọng-Lư hút thuốc  phiện nhưng tôi không ngờ anh nghiền nặng thế. Một bạn làng văn thường nằm hút với  Lư ở trên gác một tiệm hút ở Chợ-Hôm, cho tôi biết rằng có đêm Lưu-trọng-Lư hút đến  100 điếu. Tôi không biết đúng hay không, nhưng tôi tưởng-tượng 100 cuộn khói phù 

dung mỗi đêm thấm vào tim phổi, thảo nào Lư không mỗi ngày mỗi gầy đét đi.” 

Mặc dù Nguyễn Vỹ không hút thuốc phiện nhưng đến gặp Lan Khai trò chuyện cũng phải  vào “nằm bàn đèn” với Lan Khai. Ông kể: 

“Thế là suốt đêm hôm đó, tôi nằm bàn đèn thuốc phiện với Lan Khai, nghe tác giả “Ai Lên Phố Cát” kể chuyện “Ai Lên Phố Cát”. Lan Khai vừa tự tiêm thuốc hút vừa kể chuyện. Tôi, không biết hút thuốc phiện, không hút được một điếu, nhưng nằm được bên  bàn đèn, cũng như Vũ trọng Phụng, để trò chuyện vui chơi với anh em, có khi suốt đến  sáng.” (Văn-thi-sĩ tiền-chiến

Trường hợp nhà văn Lê Văn Trương, Nguyễn Vỹ biết Lê Văn Trương khi còn ở Hà-Nội  chỉ hút vài điếu xã giao với bạn bè, nhưng khi vào Sài-Gòn thì trở thành người nghiện nặng và không còn sáng tác được nữa. Nhất Linh khi vào Sài-Gòn cũng hút thuốc phiện. Nguyễn Vỹ thường gặp Nhất Linh nên biết. Nguyễn Vỹ viết: “Trong thời gian ở Saigon – Đà-lạt, Nguyễn tường-Tam đã mất nhiều nhuệ khí và phong độ thời tiền chiến. Hết thuốc phiện rồi đến rượu, đã làm hại sức khoẻ của anh cũng nhiều. Tôi có hỏi tại sao tay anh hay run, anh bảo anh đau gan.  Tôi không hiểu, có lẽ anh không muốn nói anh bị đau thần kinh.” (Văn-thi-sĩ tiền-chiến

Nhà văn Tam Lang làm phóng sự Tôi Kéo Xe kể tình cảnh của những người phu xe kéo, một nghề rất vất vả cực nhọc còn bị hành hạ, sỉ nhục, nghe người ta bảo “làm vài điếu, thức đêm  không mệt” nên dùng thuốc phiện lâu rồi thành ra nghiện. Khi đã nghiện mà thiếu thuốc thì phải  mua “món canh đen của Mẹ Cai Đen”, nấu từ những đồ dùng hút thuốc phiện cũ thải ra như mặt  tẩu, xe tẩu, giẻ lau, hộp hến đựng thuốc, và “sái sảm! cái sái củ tỉ đen như than, vụn như cám”.  

Nhà văn nghe người phu xe kéo kể lại tác dụng tai hại của thứ “canh đen” thuốc sái ấy: “Cu li xe nghiện mà thiếu thuốc hay chưa kịp hút, anh nào cũng phải đến hàng nó.  Nổi cơn nghiện mà chưa được một bát thì ông vải hiện đấy mà có gọi kéo, cũng không  buồn đi. 

… Cu li cu leo như mình mà đã chót mắc nghiện, tôi tưởng cứ mỗi ngày làm một  bát như thế vừa đỡ tốn, lại đỡ mất ngày giờ. 

– Uống vào mà được yên lành thì còn nói làm gì. Lắm đứa đã uống trừ mà sau chẳng  chết về chứng nọ cũng chết về bệnh kia, sợ nhất là bệnh táo rồi lại đi ra máu. Ăn thứ canh đen ấy vào rồi sau bị bệnh tiện huyết thì có Trời cứu. Mà lúc đã nghiện nó thì có hút đến hàng lạng một lúc cũng không đủ, vì hút chỉ bắt được có khói, còn uống lại  khác, nó ngấm vào đến tận ruột non ruột già. Người nghiện nước ấy, lâu dần nước da  không sạm mà đen đi, hai mắt chũng [trũng] vào, cổ thì ngẩng ra, ăn không được, ngủ không được, đến lúc đi ra máu loãng như nước vỏ nâu là …về, về với ông bà ông  vải.” 

Bà Nguyễn Thị Thế, em của Nhất Linh và Hoàng Đạo, chị của Thạch Lam và bác sĩ Nguyễn Tường Bách, kể trong hồi ký rằng thân phụ anh em nhà Nguyễn Tường đi sang Lào rồi  mất sớm, bà nội của anh em nhà Nguyễn Tường xin môn bài thuốc phiện ty rồi lại bán thêm  thuốc phiện lậu để có đủ tiền nuôi các cháu ăn học. Nhà văn kể như sau: 

“Ngày 31 tháng 8 năm 1917 tức là ngày mồng bốn tháng bẩy [bảy] năm Đinh Tỵ là năm ba tôi sang Lào, bà nội cũng nhờ vào môn bài thuốc phiện ty vì thuốc lậu khan  hiếm nên có lời nhiều, đủ nuôi các anh ăn học. Thầy tôi làm việc được có tám tháng thì mất, sau khi chôn cất xong mẹ tôi một mình trở về Việt Nam, bà tôi định nhờ cậu tôi sang đón nhưng mẹ tôi thấy đường đi gian lao vất vả nhỡ cậu tôi ngã bệnh lại thêm phiền ra.  Hơn nữa tiền bạc lại không có. Vì vậy mẹ tôi âm thầm về một mình một ngựa. Nói là một  mình thì không đúng vì dù sao cũng là vợ công chức nên ông Công Sứ Sầm Nứa cho giấy  đi đến đâu đã có Châu lang ra đón, có hai người phu giắt [dắt] ngựa. Cứ đến một châu lại  đổi ngựa và hai người phu. Đường đi gian nan nguy hiểm trèo đèo lội suối. Mẹ tôi nói  ngựa nó quen đi đường rừng rồi, nên nó đi khéo lắm. Ăn uống thì đã có quan châu thiết  đãi. Đi hết mười ngày ngựa tới chợ Bờ, đi hai ngày tầu [tàu] thủy nữa mới về tới Hà Nội. 

Về tới nhà mẹ tôi vẫn giữ môn bài thuốc nhưng số thuốc ít không đủ bán nên bà kêu lậu thêm thuốc nhựa có người đưa hàng từ Lào Cay, Yên Bái về do mấy người lái xe  lửa dấu [giấu] vào toa than đem về. Hôm nào có hàng là báo tin trước, mẹ tôi sai tôi và em Sáu đi thơ thẩn ra khỏi ga, đợi khi nào người lái tầu vứt xuống một cái gói như người  ta ném rác vậy, thì ra nhặt. Nhưng chúng tôi cũng không dám ra ngay, chờ tầu đi thật xa  mới lượm đem về. Cánh đồng vắng vẻ chả có ai, mà dù có người biết cũng chẳng ai nỡ tố cáo, vì ai cũng mến gia đình tôi. 

Mẹ tôi học được cách nấu. Nấu thuốc rất công phu, mất nhiều thì giờ và phải nấu  về đêm. Tôi phụ với mẹ tôi, các anh thì canh gác mấy ngả đường, có gì thì thổi còi báo  động. Đề phòng thế vậy thôi chứ họ cũng chả dại gì đi đêm vì tiếng xe hơi dễ nhận biết  lắm.  

Cẩn thận như vậy mà mẹ tôi cũng bị bắt một lần. Tôi còn nhớ vào dịp hè, các anh  ở nhà đông đủ cả. Hôm đó đến lượt em Sáu tôi coi tầu, về nói là không có tây đoan*. Nhà yên chí chưa kịp đem gửi thúng hàng đi, hàng mới nấu xong có đến mười chai lít. Mẹ tôi  mới đem ra một ít bán cho khách thì tây đoan ập tới. Em Sáu tôi đang đi chơi lang thang  ở chợ, thấy họ vội chạy về báo. Em chạy trước họ chạy theo sau. Đến gần nhà sợ không  kịp nên hét to lên “tây đoan”! Trong nhà anh Hai tôi đang ngồi học vội vã bưng thúng  thuốc chạy băng qua vườn cải bà ngoại để chạy ra cửa trước. Vừa lúc đó tây đoan chạy  tới thấy có người chạy trốn định đuổi theo. May có anh Cả tôi đang ngồi câu cá chạy ra  nói tiếng Pháp chặn lại cự nự là sao chưa xin phép mà dám xồng xộc vào nhà. Đến lúc  nó nói xong, anh Hai tôi đã băng qua đường cất hàng dưới ao rồi.  

Tây đoan chỉ bắt được có một số ít thôi nhưng cũng phạt tiền và thu lại môn bài  không cho bán nữa. (…)” 

Chú thích *Tây đoan: đoan do chữ Pháp “douane” có nghĩa là quan thuế. 

Bà nội và mẹ bán thuốc phiện nhưng con cháu trưởng thành hiểu ra sự nguy hại của thuốc  phiện nên chống lại việc hút thuốc phiện. 

Trong chức vụ tham-tá lục-sự từ năm 1929, Hoàng Đạo đã chứng kiến cảnh tàn tạ của  những người hút thuốc phiện: không những mất cả sức khoẻ, sự tinh anh, sản nghiệp, họ còn trở thành những kẻ ăn cắp vặt để có tiền mua thuốc phiện.  

Hoàng Đạo kể câu chuyện của một người hút thuốc phiện lậu và bị phạt ra tòa như sau: “Một người gầy gò, xanh xao, gió thổi một cái thì ngã: một người má hóp, môi  thâm, hai con mắt lờ đờ như nhìn vào một cõi mộng nào; một người quần áo bẩn thỉu,  móng tay cáu ghét, đầu tóc bơ phờ: một người nghiện.

– Sao? Người ta bắt được một ngao thuốc phiện trong nhà anh, có phải không? 

Sau một cái ngáp, Nguyễn-văn-Phiên trả lời đủng đỉnh như ngồi vê xái: – Bẩm có. 

– Anh không biết là đồ quốc cấm à? 

Đối với câu hỏi ấy, Phiên mỉm một nụ cười thâm: 

– Bẩm chúng tôi nghiện. 

Ông chánh án (cũng mỉm cười) – Bẩm chúng tôi biết rồi. Nhưng anh nghiện thì có liên can gì đến việc anh oa tàng đồ quốc cấm? 

Nụ cười của Phiên càng rõ rệt. Cặp mắt càng lờ đờ. Người ta bảo những lúc ấy  tinh thần của người nghiện càng sáng suốt. 

Phiên – Chúng tôi nghiện. Chúng tôi có muốn hút thuốc phiện lậu làm gì. Thuốc  ngang nhạt, bằng sao được thuốc ty. Chúng tôi muốn hút thuốc ty lắm. Chúng tôi mất tiền  mua thuốc ty cũng đã lắm: cả sản nghiệp tôi chui vào đấy rồi. Chúng tôi trung thành với  công quỹ của chính phủ đến thế, còn gì nữa. Nhưng đến nay chúng tôi hết tiền. Hết tiền  mà không hết được cơn nghiện, nên chúng tôi đành bóp bụng mua thuốc ngang hút, chứ 

chúng tôi mua đồ quốc cấm về làm gì! Nếu bây giờ nhà nước cho chúng tôi hộp thuốc ty  hút, thì khi nào chúng tôi làm điều phi pháp ấy. 

Ông chánh án – Anh nói dễ nghe nhỉ! Nhà nước làm gì có tiền vứt đi. Ai bảo anh  hút? 

Phiên (vẫn nụ cười thâm) – Nhà nước có cấm hút đâu. Nếu nhà nước cấm hút, thì tôi đã không phải ra đây, người tôi không đến nỗi thế này, mà sản nghiệp tôi không đến  nỗi hết. 

Ông chánh án (cả cười) – Nghĩa là theo anh, tội chung quy ở nhà nước cả. Anh  khéo ngụy biện quá. Nghe lời anh thì lát nữa, anh có lẽ hóa ra một ông thánh sống. Anh  hút, anh nghiện, không phải là vì anh chơi bời, mà chính vì anh muốn hy sinh sức khoẻ anh, tài sản anh cho nhà nước. Người ta còn đợi gì mà không đúc tượng đồng cho anh? 

Phiên (nụ cười càng thâm) – Đúc tượng đồng thì tôi không dám mong, tôi chỉ mong tòa nghĩ lại cho tôi nhờ. Tôi dẫu là người hút sách, nghiện ngập, nhưng sự hút, sự nghiện đó có lợi cho nhà nước. Tiền tôi mua thuốc là tiền vào công quỹ.” (“Nụ cười thâm”, Trước Vành Móng Ngựa)

“NGHIỆN, nghĩ thầm: – Ở các nước bên Âu-châu họ cấm hút thuốc phiện thì họ văn minh quái gì!” Ngày Nay 30 Mai 1937 

Hoàng Đạo ví những người nghiện thuốc phiện là “Đội Không Quân Nam Việt” theo như lời ông giải thích: “… không quân vì những lúc thuốc đã ngấm, con nhà nghiện mơ màng phiêu  diêu như bay bổng trên mây, như một nhà phi-cơ có tài lượn trên không…”  

Theo sự nhận xét của Hoàng Đạo, “… rượu là một thứ xa-xỉ phẩm của dân nghèo, thì thuốc phiện là một thứ xa-xỉ phẩm của nhà giàu của những người hạng trung-lưu trong xã-hội.”  Ông bảo người nghiện thuốc phiện không những bị ảnh hưởng tai hại đến hình dáng bên ngoài,  đến sức khoẻ thể chất “vai so, cổ rụt, môi thâm, … cơ thể suy mòn” mà hại cả đến tinh thần và di  hại đến con cháu. 

Hoàng Đạo nói về việc ngăn cấm hút thuốc phiện trên khắp thế giới nhất là tại các nước  Á-đông lúc ấy vì các chính phủ đã nhận ra sự tác hại của thuốc phiện trên sức khoẻ con người.  Ông cho biết: 

“Ở các nước Âu, Mỹ, họ cấm ngặt không cho hút hoặc lưu trữ thứ thuốc độc ấy;  ai phạm phép sẽ bị phạt rất nặng. Con yêu phù dung vì vậy chỉ tác quái ở Á-đông. Nước  Tàu là nơi nó hoành hành nhất. Nhưng không phải họ tự dấn vào chỗ chết; ai nấy hẳn còn  nhớ chuyện triều đình Mãn-Thanh đổ thuốc phiện của nước Anh xuống bể. Nước Anh  khai chiến với Tàu rồi từ ngày Tàu bại trận, ả phù dung làm trụy lạc dân Tàu không biết  bao nhiêu mà kể. Gần đây, phong trào bài trừ nạn nha-phiến nổi lên rất dữ dội. Tưởng 

giới-Thạch đã phải dùng đến những phương pháp tối khốc liệt; số người bị bắn vì hút  thuốc kể có hàng ngàn. 

Khắp Á-đông ả phù dung chuyên quyền như vậy, nhưng có một nước, con yêu ấy  phải chừa mặt; nước ấy là nước Nhật. Không phải vì nước Nhật là một cường-quốc, có tàu bay, có súng trận; chỉ vì nước ấy cấm ngặt sự hút và buôn thuốc phiện. Lần đầu bắt  được, phạt đã nặng, đến lúc tái-phạm thì sẽ bị tội khổ sai.”

“Cuộc bài trừ thuốc độc của người Nhựt 

Bởi ở hội-nghị Genève, Nhựt đã bị trách cứ nhiều về vấn đề buôn đồ có hại cho  sức khoẻ người, nên chi nhà cầm quyền Nhựt phải hết sức lo lắng để ngăn trừ sự buôn  bán ấy của dân chúng. 

Trong khoản[g] mấy ngày từ 10 tới 12 Juin có tới 269 người Nhựt bị nhà cầm  quyền Nhựt bắt trong vùng Hoa bắc về tội bán lậu những đồ độc ấy. 

Phải nói cho rõ hơn, đồ độc nói đây là những thứ như á-phiện, Morphin, Cocain,  vân vân. 

Sau khi bắt bớ kia lại có nhiều cuộc khám xét nhà ở, nhà cầm quyền Nhựt tịch thâu được trên 150.000 dollars. 

Theo tin của người Tàu, thì lãnh sự Nhựt đã hạ lịnh cho những người Cao-ly chế thuốc bắt giải nghệ. 

Người truyền ngôn của sở cảnh sát Nhựt có tuyên bố rằng con số người ta đồn đó không đúng, chỉ có sáu cuộc khám xét vừa rồi và chỉ có hơn ba mươi người bị bắt. Chẳng  thế thôi sở cảnh sát còn cải chánh cái tin hạ lịnh giải nghệ ở Cao-ly kia nữa. 

Dinh lãnh sự Nhựt tuyên bố rằng cuộc bài trừ thuốc độc đã bắt đầu từ năm 1936  tới nay chớ chẳng phải vì có sự trách cứ kia mà chánh phủ Nhựt mới thẳng tay bài trừ như vậy.” (Đuốc Nhà Nam 16 Juin 1937) 

Điều mà Hoàng Đạo lo ngại nhất là trường hợp thanh niên hút thuốc phiện. Cả xã hội  đang mong mỏi các thanh niên tân học đem những sự cải cách về nông thôn. Hoàng Đạo lo ngại  rằng “[n]hững thanh niên trụy lạc ấy, xã-hội không còn trông mong gì; dân-quê không còn mong  họ dìu dắt đi đâu nữa.” Ở nhà quê lúc bấy giờ, cũng có người nghiện thuốc phiện. Khi mắc  nghiện, họ phải tìm cách kiếm ra tiền để mua thuốc phiện. Hoàng Đạo đã thấy những người dân  quê mắc nghiện “…chỉ còn cách nằm dài nghĩ kế sui giục người khác kiện cáo nhau để kiếm  tiền; ở nhà quê, dân nghiện thường làm thầy cò*, mà thầy cò nào cũng nghiện cả.” 

Chú thích *Thầy cò: người làm đơn từ được mướn và lo việc kiện-cáo cho người khác.  

Sau khi đã trình bày sự tai hại của việc hút thuốc phiện trong dân chúng lúc bấy giờ,  Hoàng Đạo kết luận như sau: 

“Nha phiến tai hại vô cùng như vậy, không còn ai có thể vin vào lẽ gì – dầu là lẽ làm tiền cho công-quỹ – mà cứ để yên tình thế như bây giờ được. Ta cần phải tìm hết  cách trừ khử cái nạn “bàn đèn” đi. Cấm ngặt nhân dân hút thuốc phiện, đặt luật trị thật  nặng việc buôn thuốc, bỏ hẳn việc bán thuốc cho dân, đặt bệnh viện riêng chữa những  người nghiện, đó là những việc cần thiết chính phủ Bình-dân cần làm, nếu muốn cho dân  

Đông-dương thoát khỏi bàn tay sắt bọc nhung của cô ả Phù-dung.” (Ngày Nay 1937)

30 Mai  

Hoàng Đạo và nhóm Tự-lực Văn-đoàn đã luôn luôn phản đối việc chính phủ thuộc-địa  cho dân chúng tự do hút thuốc phiện. Họ biết rằng bên Pháp dân bị cấm hút thuốc phiện và đặt  câu hỏi tại sao ở Việt-Nam lại không cấm? 

Vì công-quản thuốc phiện là mối lợi lớn nên chính phủ Đông-Dương không muốn cấm  dân chúng hút thuốc phiện. Cả người Pháp ở Đông-Dương cũng hút thuốc phiện, như Amédée  Clémenti, chủ-nhiệm báo L’Argus Indochinois ở Hà-Nội. 

Thập niên 1930, chính phủ Pháp bị các cường quốc khác áp lực việc cấm sử dụng thuốc  phiện. Chính phủ Đông-dương ngần ngừ đưa ra một vài biện pháp như tăng giá bán thuốc phiện,  không cho mở thêm các tiệm hút mới, chứ không chịu cấm hẳn việc hút thuốc phiện. 

DÂN BẸP RA TRẬN 

– Trong không khí đầy hơi ngạt, tiếng máy bay vo vo; dưới đất, đàn tầu bò nghiến thịt. Ngày Nay 15 Novembre 1939

Trong dân chúng, đã có một số người nhìn ra cái hại của thuốc phiện. Trên báo chí, thấy  đăng quảng cáo thuốc cai thuốc phiện: “Thuốc cai nha-phiến cải-lương” (Đuốc Nhà Nam, 3  Septembre 1930); “Thuốc cai Hồng-Khê” dành cho “các bạn sơi cơm đen nên biết” (Phong-Hóa 5 Juin 1936). 

Đuốc Nhà Nam 3 Septembre 1930 

Phong-Hóa 5 Juin 1936 

Chủ nhân bán thuốc cai An-Hoa cho in và phát không hai vạn (20.000) cuốn “Bả Yên  Hà” để nói về cái hại của thuốc phiện (Ngày Nay số 186, 4 Novembre 1939) 

Ngày Nay 4 Novembre 1939

Tác giả Phạm Ngọc Lũy kể lại trong hồi ký ngày ông đến thăm Sài-Gòn, “Hòn Ngọc  Viễn Đông”, năm 1940 cảm giác khi nhìn thấy những người hút thuốc phiện như thế nào: “…đi  dọc đường Rue d’Espagne, tôi rùng mình trông thấy nhiều nhà liên tiếp, từ ngoài đường nhìn vào  thấy hàng dài người nằm hút thuốc phiện. Thực dân Pháp đang khuyến khích dân ta tự đào hố 

chôn mình…” (Hồi Ký Một Đời Người) 

Có người đương thời nhận xét như sau: 

“Thực-dân đã tặng dân ta bài thuốc an-thần “Tứ Khoái”: 

R.O. (thuốc phiện) R.A. (rượu) 

ĐĨ CỜ BẠC” 

Mấy chàng “trai thế-hệ” … trước 

  1. Công-quản muối 

Năm 1897, công-quản muối được thành lập. Năm 1903, các “régies” bán muối xuất hiện trên toàn cõi Đông-Pháp. Tất cả muối do dân chúng sản xuất phải bán cho chính phủ bằng một  giá nhất định. Những người bán và chuyên chở muối lậu bị trừng phạt nặng. Thuế muối tăng từ 0,08 đồng năm 1897, đến 2,25 đồng năm 1906. Ở Bắc-kỳ, số lượng sản xuất muối giảm đi, từ 42.000 tấn năm 1927, 30.000 năm 1928, và 26.000 tấn năm 1929. Những con số này phản ảnh  việc người dân bất hợp tác với chính phủ, hoặc tự động giảm sức sản xuất hoặc bán muối lậu,  không qua chính phủ. 

Công-quản muối không gây ra những xáo trộn hoặc tai hại cho xã hội như công-quản  rượu và thuốc phiện, nhưng có ảnh hưởng đến kỹ nghệ ướp cá và làm nước mắm. 

Nam-kỳ, Trung-kỳ, Bắc-kỳ có ngân sách riêng do các loại thuế sau đây đem về: thuế thân, thuế điền thổ, thuế lợi tức, thuế môn bài, thuế thuyền bè. 

Ngân sách của chính phủ Đông-Pháp có được nhờ các thứ thuế công-quản, thuế đoan,  thuế trước bạ, thuế bưu-chính. Việc thu nhập các loại thuế này giúp cho ngân sách Đông-Pháp có nguồn lợi đều đặn để thực hiện những kế hoạch của chính phủ. 

– Năm 1919, thuế công-quản thu về gần 34 triệu đồng, năm 1924 thu về hơn 47 triệu. – Năm 1919, quan thuế (thuế đoan) thu về gần 6 triệu, năm 1924, gần 10 triệu. – Thuế trước bạ, thuế bưu chính cũng tăng gấp đôi trong thời gian từ năm 1919 đến  1924. 

Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh (Việt-Nam Thời Pháp Đô-Hộ), trước năm 1930, thuế công-quản rượu, thuốc phiện và muối góp 70% ngân quỹ Đông-Pháp. Năm 1931, sau khi việc mua ép rượu bị bãi bỏ, thuế công-quản chỉ còn giữ một phần ba ngân quỹ. Chính phủ phải tìm  cách bù vào ngân quỹ bằng việc đánh thuế các loại hàng nhập cảng.  

Theo hai tác giả Pierre Brocheux và Daniel Hémery (Indochina: An Ambiguous  Colonization), thu nhập cao nhất về thuế công-quản là vào năm 1916 với 48%, và đến năm 1942  chỉ còn góp 14% vào tổng ngân quỹ Đông-Pháp. 

Cách đánh thuế bằng tiền đã đẩy dân chúng tham dự vào nền kinh tế tiền tệ. Những người  dân quê cố gắng tăng sức sản xuất trên mảnh ruộng của họ để có sản phẩm thặng dư. Những  người dân quê không kiếm ra đủ tiền để đóng thuế, bị bắt buộc phải dời làng quê tìm việc làm ở thành thị hay tại các hầm mỏ và đồn điền để được trả lương. Họ hợp thành một giai cấp mới  trong xã hội: những người vô-sản, bị tách rời khỏi các phương tiện sản xuất của họ. 

Nhà biên khảo quân sử Phạm Văn Sơn nhận được quyển Nam chi tập của Mai-Sơn  Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925), một nhà nho cùng thời với Sào-Nam Phan Bội Châu, do bào  đệ của Mai-Sơn tiên sinh là Nguyễn Thượng Khôi trao cho. Theo lời giải thích của Phạm Văn  Sơn, “Nam chi tập” lấy ý từ câu “Việt điểu sào Nam chi”, nghĩa là chim Việt đậu cành Nam,  

cũng cùng ý nghĩa với biệt hiệu “Sào-Nam” của Phan Bội Châu. Trong Nam chi tập quốc văn, có một tài liệu nhan đề là “Câu chuyện chảy nước mắt vì cuộc biển dâu”.  

, bản dịch ra  

Mai-Sơn tiên sinh cho biết trong khi bôn bá* tha hương ở đất Tàu, ông gặp một người  Cao-ly (Đại Hàn). Cả hai than thở về cảnh “mất nước tan nhà”, đồng cảnh ngộ, nước Hàn bị Nhật chiếm đóng, nước Việt bị Pháp chiếm.  

Chú thích                         

*Bôn bá: chạy vất vả, có ý nói lúc hoạn nạn. Bôn bá tha hương

*Bôn ba: chạy chọt vất vả, có ý cầu lợi. Bôn ba lối lợi đường danh. (Việt-Nam Tự-Điển

Sau đây xin trích dẫn một số đoạn trong “Câu chuyện chảy nước mắt vì cuộc biển dâu”  của Mai-Sơn tiên sinh, một người sống dưới thời thuộc Pháp cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20, làm chứng nhân cho sự cai trị của Pháp vào thời gian này. 

“Ông Man bảo tôi rằng: “Chúng ta mỗi người ở một nước, tiếng nói, y-phục khác  nhau nhưng tình-trạng thì giống nhau, nghĩa là cùng là người mất nước cả. Than ôi, ông  Nguyễn, cái thảm-họa mất nước ông với tôi đều phải chịu, nhưng nước Hàn tôi đối với  giống người lùn vì quá gần gụi nên áp-lực mạnh hơn nhiều, như một người già ốm ở liền  quân cường-đạo, không kể mưa nắng, ngày đêm lúc nào nó cũng có thể tra-khảo mình để 

lấy của, đâm chém rầy-vò mình cho chết. Còn như nước ông, nghe nói bị người Pháp  chiếm nhưng người Pháp ở xa mà nước lại giàu, chắc hẳn họ không đến nỗi làm hại nước  ông quá lắm”. 

Tôi trả lời rằng: “Chao ôi, ông lại còn cho nước tôi là may-mắn lắm sao? Tiếc  rằng ông chưa đặt chân đến nước tôi lần nào nên ông không biết. Ở đời bao giờ lại có giống hổ dữ mà không ham ăn thịt người, con chim non bị diều-hâu bắt mà xương thịt  còn toàn-vẹn. Núi Hương-Sơn của nước tôi đã cao chót vót thì xương của dân nước tôi  cũng cao như thế, sông Nhị-Hà nước tôi chảy cuồn-cuộn thì máu dân nước tôi cũng chảy  nhiều như thế, ông còn chưa biết sao? 

Ông Man nói: “Những sự hung tàn bạo ngược của người Pháp xưa nay chưa có ai  nói cho tôi biết, xin ông kể lại tường-tận, tôi xin lắng tai nghe.” 

Lúc ấy máu nóng trong lòng tôi sôi lên sùng-sục bất-giác kể chuyện ra dài dằng dặc, nay chép ra đây để ghi lại niềm oán thù, uất hận của tôi. Còn sau này, ai xem đến mà thương tôi, khinh tôi hay cười tôi, thì cũng đành vậy. 

Nước tôi diện-tích rộng 27 vạn dăm vuông, dân số hơn 25 triệu người, ruộng đất  tốt lại có nhiều nguồn lợi trên rừng dưới biển dư thành một nước trên mặt địa-cầu. Vài  trăm năm trở về trước, dù có nhiều lần bị nước ngoài xâm lấn, nhưng nhờ người trong  nước trên dưới một lòng, kháng-chiến mãnh-liệt nên vẫn giữ được đất nước toàn vẹn.  Năm mươi năm trở về đây, làn sóng Âu-châu tràn sang, cục-diện đổi khác hẳn, những 

người cầm quyền trong nước bấy giờ đã ngu lại gàn bướng, cứ khăng-khăng giữ chủ nghĩa bế quan tỏa cảng, không biết lấy việc ngoại-giao làm cần thiết, phải mở mang trí thức cho nhân dân. Vậy nên người Pháp mới thừa cơ, trước tiên là đem người sang  truyền-đạo Da-Tô để biết điều thực hư trong nước, kế đến đem hàng-hóa sang buôn bán  để đi sâu trong dân-gian. Sau khi đã rõ hết tình-hình họ mới dùng đến chiến-tranh, bất kể hòa-ước, thế là 36 tỉnh trong nước tôi đều lọt hết vào tay họ. Khi đã đắc thế rồi, thấy ai  phản-đối họ tiêu-diệt ngay, coi quan lại nước tôi như phường nô-lệ, nhân-dân nước tôi  như bầy súc-vật, thi-hành những chính-sách cực-kỳ hung-ác để trói chặt chân tay, hút hết  máu mủ, tình-trạng bi-thảm này đến nay đã 26 năm rồi. Chính-sách độc-ác nhất của họ có 4 điều: 

1/ Áp-dụng các hình-phạt tàn khốc nhất. 

2/ Đánh sưu-thuế rất nặng-nề. 

3/ Chẹn hết mọi đường mưu-sinh của dân. 

4/ Giam hãm không cho dân chúng tôi phát-triển về đường trí-thức. 

Ngoài ra còn muôn ngàn điều tai hại, nói không sao xiết. Tóm lại một câu: họ chỉ muốn tiêu-diệt toàn-thể dân-tộc chúng tôi mà thôi. (…) 

Phép lấy thuế của dân ở nước tôi trước kia, ruộng chia ra làm ba hạng mà thu, giá thuế rất nhẹ. Năm nào mất mùa hay lúa xấu, thuế được giảm hay được tha hẳn. Từ khi  nước tôi thuộc Pháp, chính-sách của họ rất là hà-khắc. Thoạt đầu, ruộng hạng ba lên làm  ruộng hạng nhì, ruộng hạng nhì lên làm ruộng hạng nhất để chịu thuế cao. Nhưng sau, bất  kể xấu tốt ruộng nào cũng bị coi là ruộng hạng nhất cả. Tiếp tới diện-tích của điền-thổ cũng tăng lên, trước kia là một ngàn mẫu nay tính là hai ngàn. Dân không chịu nổi thuế nặng xin cho khám đạc, họ cứ làm ngơ, nghĩa là chính-sách của họ chỉ cứ tính ruộng đất  ở trên giấy tờ rồi bắt dân chịu thuế khống*, dù nặng nề cũng không kêu van vào đâu  được. Không những thế, gặp năm mất mùa hay lúa xấu, thuế vẫn phải nộp đủ số. Làng  nào không nộp được thì lính tráng kéo về bắt gà giết lợn, tra-tấn từ già đến trẻ, tiếng than khóc rất là thảm-thiết. Kết-cục dân phải bán vợ đợ con để nộp thuế hay chịu chết quăng  thây xuống hang xuống rãnh. 

*Khống: mất không: Ruộng không cấy được phải nộp thuế khống. (Việt-Nam Tự-Điển, Hội Khai Trí Tiến-Đức khởi thảo) 

Đàn ông từ 18 tuổi trở lên phải nộp tiền sưu mỗi người ba đồng bạc rồi được cấp  cho một cái thẻ gọi là giấy thuế thân. Nếu ai không có giấy này gọi là lậu-đinh phải phạt  rất nặng. Ngoài đường nơi nào cũng có lính tuần-cảnh toàn là những người rất hung ác.  Ai đi qua lại đều phải khám giấy thuế thân, nếu không có giấy phải giam vào nhà-lao làm  việc khổ-sai, mãn-hạn phải nộp phạt còn nặng gấp mấy lần tiền thuế. Lính tuần-cảnh nếu  mỗi tuần không bắt được ai phạm pháp thì bị khiển-trách nặng. Họ thường vu tội cho  người để thoát thân. Có lần một người buôn-bán đi qua một thành-phố gặp lính xét giấy  rồi vò nát cho vào miệng định nuốt đi. Người kia sợ quá vội bóp chặt cổ tên lính không  cho nuốt. Tên lính vẫn không nhả, người buôn-bán càng bóp chặt thêm khiến tên lính tắc  thở mà chết. Khi đem xét-xử, người đi buôn khai rõ sự-thực, mổ cuống-họng người lính  ra quả-nhiên có cái giấy thuế thân, người lái-buôn mới thoát tội. Đó là một chuyện,  nhưng ở trong cái thế-giới đầy gai-gốc ấy, dám hăng lên dùng sức mạnh để giữ mình, chỉ có một người ấy thôi, còn chịu oan-uổng không biết bao nhiêu người mà kể. 

Thuế thân thì chỉ thi-hành cho những người dân thường, còn những người có phẩm-trật đều được miễn. Ông mới nghe thế tưởng rằng đó là cái chính-sách quý trọng  người sang nhưng không phải đâu. Người nào có phẩm-trật cứ ba năm phải trình bằng cấp một lần với cơ-quan hành-chính và phải nộp 15 đồng bạc gọi là tiền giúp nước. Gọi  là “giúp” tiếng có sang hơn bắt phải nộp nhưng tiền lại mất nhiều hơn, vậy cái cách lừa dối như câu chuyện người nuôi khỉ sáng cho ba quả, chiều cho bốn quả cũng rất thịnh hành ở Châu Âu chăng? 

Ở thành-phố ngoài thuế-thân ra, mỗi năm người dân còn phải nộp hai đồng bạc  gọi là thuế thông-hành. Có giấy thuế ấy mới được đi tự-do trên đường phố. Sau khi nộp  thuế người dân cũng được cấp một cái thẻ có dán hình, cảnh-binh xét thấy biết ngay là thật hay giả, không thể lừa dối được. Người nhà quê có việc ra đến thành-phố quá ba  ngày cũng phải lãnh thẻ kể trên, nếu không thì phải phạt nặng. Còn người ở nơi thành phố, từ thức ăn đồ mặc, nhà ở đồ dùng, không cái gì là không có thuế, đến đại tiểu-tiện  mỗi tháng cũng phải nộp 6 cắc bạc, kể chi đến những việc khác, như vậy đủ hiểu người  Pháp tham-lam, vơ-vét đến thế là cùng. 

Người phải nộp thuế âu cũng đành đi, nhưng ở thành-phố chó cũng là một vấn-đề cho thuế má. Ai nuôi chó mỗi năm phải nộp một đồng bạc. Người ta phát cho một cái thẻ buộc vào cổ chó, nếu không thì chủ nuôi phải phạt. Còn như trâu tuy không phải nộp thuế vào sổ công nhưng phải nộp vào Công-ty bảo-hiểm súc-vật. Nhà nào có nuôi một con  

trâu thì mỗi năm phải nộp tiền bảo-hiểm 2 đồng bạc, nếu trâu mắc bịnh chết, Công-ty sẽ bồi thường theo giá con trâu ấy. Nhưng mỗi khi có dịch, trâu chết rất nhiều, người ta đến  báo với Công-ty, Công-ty bảo phải đợi khám-nghiệm rồi mới bồi thường, nhưng kết cuộc chẳng bao giờ có người đến ngó vào đám trâu chết cả, xét ra trong một nước trâu có tới  muôn ngàn, Công-ty bảo-hiểm thu tiền rất nhiều, nhưng nói đến bồi thường từ khi có Công-ty chưa ai nghe thấy nói ai được tiền ấy cả. Không phải người ta ai cũng ngu mà vứt của đi đâu, chính vì có Chính-phủ làm hậu-thuẫn cho Công-ty, nhà có trâu không thể không bảo-hiểm, bảo-hiểm mà không có hiệu-quả không thể không im đi, nếu còn đòi  tiền bồi-thường đã không ích gì mà còn có hậu-họa là khác nữa. 

Ở các miền quê thuế cũng rất nặng dù các thổ-sản rất thường cũng phải nộp thuế. Có một người nghèo gánh rau vào chợ để bán, tính ra tiền thuế còn nhiều hơn tiền bán cả gánh rau, người ấy không nộp được bị kẻ thu thuế hành-hạ rất khổ phải quăng bỏ gánh rau mà đi. Lại một người nghèo khác đem một con heo ra chợ bán không được giá, phải mang về rồi đi lại trước sau ba lần mới xong việc, cộng tiền thuế ba lần phải nộp thì vừa  bằng tiền con heo. 

Đã phàm vật gì ở trên mặt đất như cây cỏ, viên ngói, hòn đá nghĩa là cái gì dùng  được đều có biên hết vào trong sổ thuế. Thuế đất, thuế nhà, thuế môn bài, cứ mỗi năm  một tăng. Đi lại ngoài đường thuế xe, thuế ngựa, thuế gồng gánh cứ tính ngày mà thu đủ.  Nhất là thuế đò giang đem so với các thứ thuế khác lại càng nhiều hơn, vì rằng nước tôi  từ Bắc vào Nam sông ngòi nhiều như mắc cửi, dân-cư trú-ngụ hai bên sông muốn qua lại  buôn bán thường phải dùng thủy-đạo nên mỗi năm thuế đò giang là một nguồn lợi về thuế to-tát vô cùng. 

Ngoài thứ thuế này đến thuế rượu lại càng kỳ lạ và ác hại hơn. Dân chúng tôi ở về nhiệt-đới, do đó mà ít nghiện rượu, giá rượu rất rẻ. Từ 10 năm nay một số con buôn Pháp  xin với chánh-phủ lập một Công-ty cất rượu độc quyền. Dân-gian không ai được nấu  rượu. Công-ty tha hồ bán đắt, nhưng rượu của Công-ty có độc, uống đến ba chén là nhức  đầu hoa mắt, người nghiền chỉ chừng nửa năm là chết. Dân khuyên nhau đừng uống rượu  thì Chánh-phủ chiếu theo số đinh bắt mỗi xuất phải mua ba chai mỗi tháng. Chính-sách  ấy mới thi-hành ở một vài tỉnh nhưng từ đó trở đi, họ vẫn dụ dỗ cho dân uống rượu.  Người của sở Thương-chính đi tuần khắp các làng xóm, xông-xáo vào cả buồng the* nhà người ta mà lục xét xem có rượu lậu hay không, hoặc theo gót người để xem đi đâu, có giấu-giếm ở nơi nào, suốt năm xôn-xao như đi lùng bắt giặc. Ai mà nấu lậu, bắt được một  chai rượu phạt tới vài bốn trăm đồng bạc trở lên, nghèo không nộp được thì bắt người  thân thuộc phải nộp thay, thân thuộc nộp không đủ bắt đến làng xóm, giam cầm tù đày  đến cả người vô tội khiến có người phải mang cả nhà đi trốn. Trước khi chưa nộp được  phạt, hàng ngày kẻ phạm-pháp phải làm việc khổ-sai, đêm tới thì bị giam vào ngục tối  hoặc nửa năm, hoặc một năm khổ-sở vô cùng đến khi tha về thì thân hình tiều-tụy, nhà cửa tan-tác, nhiều người buồn khổ phải tự-tử. Ở huyện Quảng-xương tỉnh Thanh-hóa có một làng nhỏ chỉ có một trăm nóc nhà mà có ba người phạm vào lệnh cấm nấu rượu vì dân làng ấy trước đây vẫn làm nghề buôn rượu. Viên Công-sứ sức cho quan Huyện bắt  mấy người ấy và cả làng phải liên-đới nộp phạt. Bị tù giam mấy năm số tiền phạt vẫn  chưa sao nộp đủ được, dân kêu với quan Huyện xin nộp hết ruộng nương nhà cửa để thanh-toán việc này cho khỏi nạn bắt bớ giam cầm. Quan Huyện bẩm lên viên Công-sứ, sau đó có việc phát mại ruộng đất làng này. Từ đó làng chỉ có người mà không có ruộng  đất nữa, nhưng dân vẫn không dám rời đi nơi khác vì còn có những thuế-má khác phải  đóng. Đó là việc chính tôi được thấy rõ, xét ra mấy năm nữa dân làng này sẽ kiệt-quệ mà chết. 

Bên nước tôi những ruộng muối ở ven biển xưa kia vẫn để cho dân tự-do làm rồi  đem buôn bán với nhau. Muối làm ra đã tốt lại rất rẻ. Từ khi có Công-ty muối lập ra, dân  bị cấm không được làm muối như đối với việc rượu vậy. Muối của Công-ty bán ra lẫn cả  đất cát, giá lại rất cao, nhà nghèo có được tý muối thường quý hơn gạo cho nên người có  Hán-học nước tôi khi ăn cơm lại nhớ đến câu thơ của Tô-đông-pha: 

Khởi thị văn thiều giai vọng vị, 

Nhi lai tam nguyệt thực vô diêm

Dịch nghĩa là: “Há có phải nghe nhạc-thiều hay quá mà quên cả vị thức ăn. Sở-dĩ ăn không biết vị gì là ngon vì đã ba tháng ăn không có muối.” 

Chú thích

*Buồng the, cũng như buồng thêu: chỗ đàn bà ở. (Việt-Nam Tự-Điển, Hội Khai-Trí Tiến-Đức khởi thảo) 

Người nước Pháp cho nước tôi là nơi có nhiều mối lợi cho nên kéo nhau sang lũ lượt, ngoài những công-ty rượu, công-ty muối, họ còn lập các đồn-điền nữa. Họ thuê người cày cuốc khai-khẩn và chăn nuôi súc-vật những nơi gần núi. Nhưng ở đâu họ cũng  cậy quyền cậy thế chiếm-đoạt ruộng đất của các làng, đồn-điền nào cũng có ít nhất 1/3  ruộng đất đã khai-khẩn sẵn do mồ hôi nước mắt của dân bấy lâu ẩn-nặc để tránh thuế… 

Tỉnh Quảng-Nam là một tỉnh về phía Nam kinh-thành nước tôi, dân khổ về sưu cao thuế nặng, kéo nhau đến dinh Công-sứ kêu xin*. Viên Công-sứ không nghe cho quân  lính ra xua đuổi, dân ngã xuống sông chết đuối ba người. Dân-chúng nổi giận, mới đem  xác ba người chết đuối ấy để trước cửa dinh Công-sứ rồi tụ-họp vài ngàn người mặc đồ tang-chế khóc vang trời đất, hàng tuần không chịu giải-tán, nằm ngồi ngổn-ngang cả ra  đường. Viên Công-sứ không biết làm thế nào đánh điện báo viên Khâm-sứ. Viên Khâm sứ vào hỏi dân vì cớ gì dám làm loạn. Dân trả lời: “Chúng tôi tay không, khí-giới không  có, làm loạn thế nào được, chỉ vì sưu thuế nặng, công dịch nhiều chịu không nổi nên đem  nhau đến đây kêu xin mà thôi”. Viên Khâm-sứ nói: “Chúng bay nghèo-nàn cùng khốn,  không đóng đủ được thuế khóa thì chết đi là hơn”. Nói xong y ra lệnh cho lính xả súng  bắn vào dân, dân chết đến mấy trăm người, máu chảy lênh-láng, bấy giờ mới chịu giải tán. Ngoài ra còn có ông Lê-Khiết là Bố-chánh đã về hưu và ông Trần-quý-Cáp đỗ Tiến sĩ cũng đều bị giết. Ông Lê-Khiết vì ngày thường vẫn ghét chính-sách bạo-ngược của  Pháp, ông Trần-quý-Cáp viết thư cho người bạn có 7 chữ “ngô dân thu cự khoái khoái  khoái!” (Dân ta làm việc ấy khoái, khoái lắm). Người Pháp biết được ghép vào tội phản  nghịch đem chém luôn cả hai người. Than ôi, cúi đầu kêu van đã bị cái họa mất xác, nói  lời khảng-khái cũng bị cái tội chém đầu, như thế tính-mạng của dân nước tôi thiệt không bằng cỏ rác vậy.

Chú thích

*Việc kháng thuế này xảy ra tháng Ba 1908, được gọi là “Trung-kỳ Dân-biến” hoặc “Phong trào  cắt tóc xin sưu” từ Quảng-nam lan sang nhiều tỉnh khác ở miền Trung. Hàng vạn người đi biểu tình kéo đến  tòa Sứ Quảng-nam xin giảm sưu khiến cho chính phủ bảo hộ có cớ chính đáng để bắt giam các sĩ phu duy tân. Chính phủ qui lỗi cho những sự xáo trộn trong dân chúng là do kết quả của những buổi diễn thuyết và các lớp khai trí khai hóa của sĩ phu duy-tân. 

Huỳnh Thúc Kháng bị đại-lý Pháp ở Tam-kỳ đối chứng như sau: 

Đại lý Pháp nói: 

– Ông là hàng khoa giáp của An Nam, sĩ dân trong tỉnh đều suy phục. Ông thường đi các nơi diễn thuyết,  đề xướng dân quyền. Nay hạt dân dấy loạn, kéo nhau cự sưu, trong số có đồ đệ của ông theo xúi giục,  quan Sứ triệu ông cũng vì cớ ấy. 

Huỳnh Thúc Kháng nói: 

– Việc tôi diễn thuyết là việc trước tai mắt trăm ngàn người. Vấn đề diễn giảng không ngoài việc tỉnh xa  sùng kiệm khai trí trị sinh, cùng bỏ cái học khoa cử, cổ lệ Âu-hóa, tuyệt không có việc dẫn người làm  viêc phạm thượng vi pháp. Ngày nay nhân dân xin xâu, chỉ vì bần khổ bức xúc cùng bị quan lại tham  nhũng bức hiếp, không nơi kêu thấu, họ làm thế chỉ là kêu oan, tôi có dự vào việc ấy làm gì? 

(Huỳnh Thúc Kháng. Tự Truyện

Trần Quý Cáp bị đổi vào làm giáo-thụ ở Khánh-hòa tháng Giêng 1908 thì xảy ra việc xin sưu ở Quảng-nam. Khi bị Pháp bắt ông tự biện hộ rằng: 

– Tôi chỉ đem sở học nhi hành để mong dìu dắt cho dân khôn nước mạnh, nay dân trí như vậy là đã khá cao do lòng định liệu cho tương lai mình, cho vận mệnh nước nhà. Tôi có tội tình gì, dân có tội tình gì. (Phan Bội Châu. Thi Văn Quốc Cấm

Phan Châu Trinh bị bắt từ Hà-nội giải về kinh đô (Huế). Bị các quan buộc tội, ông trả lời: – Các ngài ngồi lên đầu dân lại ăn lộc nước mỗi ông một tháng hoặc bốn tháng, năm trăm đồng, hoặc hai  ba trăm đồng, dưới nữa cũng một trăm, tám chín chục, bổng ấy không phải là máu mủ của dân sao?  Thế mà cứ ngồi ăn lịt, không lo vì dân mở đường sinh kế, toan việc công lợi, để cho nó cùng vô sở xuất, không biết lấy chi nộp thuế mà rủ nhau đi làm hạ sách đi yêu cầu như thế, ấy là cựu*[cữu] các  ngài, các ngài đã không biết tội thì chớ, lại đổ cho người khác sao?” 

(Giai Nhân Kỳ Ngộ 

Chú thích *Cữu: lỗi. 

Huỳnh Thúc Kháng bị đưa đi nhà giam ở Hội-an. Trần Quý Cáp bị xử chém vì một câu nói mích  lòng viên chủ tỉnh Khánh-Hòa. Phan Châu Trinh nhờ được Hội Bảo-trợ Nhân-quyền Pháp can thiệp nên chỉ bị đày đi Côn-đảo. 

Xin độc giả xem thêm về Phong trào Duy-tân trong sách Lược Sử Triết Lý Giáo Dục Việt Nam (Ngô Thị Quý Linh, 1997). 

Tiếp theo là lời trần thuật của Mai-Sơn tiên sinh trong Nam chi tập người đi làm đường sắt sang Vân-Nam.

về việc tuyển  

“Vài năm trước đây người Pháp làm con đường sắt ở biên giới xứ Bắc-kỳ nước tôi  để đi thông sang tỉnh Vân-Nam bên Tàu. Nhưng vì dân ở nơi đó không làm nổi cả cái  công-trình lớn-lao ấy, họ mới mộ dân nghèo ở các địa-phương khác đến làm công. Vì ở đó khí độc lam chướng nặng lắm, họ hứa trả công rất nhiều cho người ta xô đến. Sau họ lại nuốt lời hứa, thường có người làm việc suốt ngày mà không được bữa cơm no. Thây chết ngổn-ngang ở nơi hang núi không biết bao nhiêu mà kể, nếu người có lòng nhân-từ qua đấy hẳn nghĩ rằng tình-trạng này so với cảnh chiến-trường ngày xưa còn gấp bội.  Việc xẻ núi ấy hàng ức muôn người làm, không phải là không có ai về được, nhưng vì trong khi làm việc bị đói rét lại nhiễm phải khí độc lam chướng nên thân hình tiều-tụy có về đến nhà vài tháng rồi cũng chết và không chết cũng thành đồ bỏ, suốt đời không làm  ăn gì được nữa. Con đường ngoằn-ngoèo đầu từ tỉnh Tam-Tuyên, cuối đến đất Lục-Chiêu  (Lục-Chiêu là tên đất Tàu thuộc tỉnh Vân-Nam) người Pháp gọi là con đường sắt, nhưng  người nước tôi gọi là con đường máu.” 

(Phạm Văn Sơn. “Việt-Nam trong những năm đầu của thế-kỷ XX”, Văn-Hóa Nguyệt-san tháng Sáu 1963). 

Nguyễn Thượng Hiền ngoài tên hiệu Mai-Sơn, còn có tên Mai-Thứ, biệt hiệu Thiếu-Mai  sơn-nhân. Thân phụ là Nguyễn Trọng Phiên, đỗ nhị-giáp nhã sĩ đời Tự-Đức làm quan đến Công bộ thượng-thư. Ngoại tổ là Phan Huy Vịnh làm quan đến Lễ-bộ thượng-thư. Nhạc phụ Mai-Sơn  tiên sinh là Tôn Thất Thuyết, quân-vụ đại thần kiêm Binh-bộ thượng-thư, người chỉ huy cuộc tấn  công thành Mang-Cá và tòa Khâm đêm ngày 5 tháng Bảy 1885. 

Tiên sinh đậu cử-nhân năm 1884 và đậu kỳ thi Hội và thi Đình năm 1885, nhưng không  may việc thất thủ kinh thành xảy ra đúng vào ngày truyền lô* nên cuộc thi bị bãi bỏ. Năm 1892,  ông thi Hội lại nhưng chỉ vào đình đối*, đỗ hoàng-giáp. Ông được bổ làm Quốc-sử-quán biên-tu,  sau đó làm đốc-học Ninh-bình, rồi đốc-học Nam-định.  

Năm 1907, chính phủ bảo hộ truất phế vua Thành-thái rồi đày vua sang đảo Réunion.  Mai-Sơn tiên sinh chất vấn phủ toàn-quyền về việc phế bỏ vua, sau đó ông treo ấn từ quan, sang  Trung-hoa gặp Kỳ-ngoại-hầu Cường Để, Phan Bội Châu và một số chí sĩ Việt-nam bàn việc  chống Pháp (1908). Sau gần hai mươi năm cùng hoạt động với các đồng chí mà không việc gì 

thành, ông về tu ở chùa Cô-sơn (Hàng-châu) và viên tịch ở đấy. 

Chú thích

*Truyền lô: lễ tuyên đọc sắc chỉ của vua ban học vị tiến sĩ cho các sĩ tử đỗ kỳ thi Đình. 

* Đình đối: vào thi trước sân chầu. (Việt-Nam Tự-điển, Hội Khai-Trí Tiến-Đức khởi thảo) *

Sưu cao thuế nặng thời thuộc Pháp bị dân chúng oán thán cho nên các chính phủ sau thời  thuộc Pháp đều phải lưu tâm đến việc thuế khóa. 

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, chính phủ của Việt-Nam Đế-Quốc, nội các  Trần Trọng Kim, ra một sắc luật ngày 23-5-1945 miễn thuế thân cho những người quá nghèo  hoặc có đồng lương dưới 100 đồng mỗi tháng. Các thuế gián thâu rượu, thuốc phiện, muối đương  nhiên bị bãi bỏ. 

Thời cuộc thay đổi nhanh chóng khi Nhật thua cuộc chiến tranh vào đầu tháng Tám năm  1945. Đệ-nhị thế-chiến chấm dứt. Chính phủ Trần Trọng Kim mất hậu thuẫn quân sự của Nhật.  Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Bắc bộ Việt Nam yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 25 tháng  Tám năm 1945, bản tuyên chiếu thoái vị của vua Bảo Đại được gửi đến các khâm-sai Bắc-bộ,  Nam-bộ và chính quyền các tỉnh miền Trung.  

Sau lễ thoái vị của vị vua cuối triều Nguyễn vào ngày 30-8 ở đế đô, ngày 2-9-1945 Hồ Chí Minh xuất hiện trước công chúng Bắc-bộ để đọc bản Tuyên-ngôn Độc-lập. Trong tháng Chín năm 1945, chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tuyên bố bỏ thuế thân, bãi thuế môn bài; những nông dân có dưới năm mẫu được miễn thuế điền. Nhưng  chính phủ phải đề xướng “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”, đổi tiền giấy của Đông-dương Ngân hàng phát hành lấy giấy bạc Hồ Chí Minh, và lập lại thuế thân để có ngân sách điều hành, mua  súng đạn. 

Các thuế gián thâu như thuế muối, rượu, thuốc phiện đã bị bãi bỏ và không áp dụng lại.  Để giúp ngân khố mau có tiền, chính phủ chú trọng vào quan thuế, là một trong những nguyên  do đưa đến sự xung đột với quan thuế Pháp xảy ra tại Hải-phòng gần cuối năm 1946.  

Tác giả cố gắng sưu khảo với những tài liệu có thể tìm thấy được qua sách báo đã xuất  bản và phổ biến trên internet. Bài tiểu khảo này hẳn hãy còn nhiều thiếu sót, mong các vị cao  minh lượng thứ cho. 

Nhờ kỹ thuật điện toán, bài viết này có thể được hiệu đính và cập nhật nếu cần. Các biên  soạn của tác giả đã phổ biến trước đây về giai đoạn lịch sử thuộc Pháp nếu có chi tiết nào khác  biệt với bài viết này, dám mong quý độc giả thể tất và xin tham khảo theo bản văn này. Chân thành cảm tạ quý độc giả. 

Tác giả Ngô Thị Quý Linh cẩn chí 

Tháng Mười Hai năm 2024

THAM KHẢO 

Brocheux, Pierre, và Daniel Hémery. Indochina: An Ambiguous Colonization 

, dịch giả: Ly Lan  

Dill-Klein, cùng với Eric Jennings, Nora Taylor, and Noémi Tousignant, University of  California Press, USA 2011. 

Đoàn Thêm.  

Hai Mươi Năm Qua, Việc Từng Ngày (1945-1964), Sài Gòn 1965; Xuân Thu tái  

bản tại Hoa Kỳ. 

Đuốc Nhà Nam, Saigon, 1928-1937.  

Hoàng Đạo. Trước Vành Móng Ngựa, Đời Nay xuất bản, Việt Nam. 

Huard, L. La Guerre du Tonkin, Paris 1890 

Ngày Nay, Hà Nội, 1935-1940. 

Ngô Thị Quý Linh. Lược Sử Triết Lý Giáo Dục Việt Nam, Ý Linh xuất bản, Hoa Kỳ 1997. 

Ngô Thị Quý Linh. Lịch Sử Việt-Nam từ thuộc Pháp đến độc lập 1858-1945, Ý Linh xuất bản,  Hoa Kỳ 2002. 

Ngô Thị Quý Linh. Việt-Nam và Công Cuộc Duy-Tân, Ý Linh xuất bản, Hoa Kỳ 2019. 

Nguyễn Thế Anh. Việt-Nam Thời Pháp Đô-Hộ, Tủ Sách Sử-Địa Đại-Học Lửa-Thiêng xuất-bản,  Sài Gòn 1970. 

Nguyễn Thị Thế. Hồi Ký về Gia Đình Nguy ễn-tường, Đại học Đông Nam xuất bản, Hoa Kỳ 1992. 

Sách Địa-dư có bản-đồ, Imprimerie de Quinhon, Annam 1926. Kho Sách Xưa Quán Ven Đường. Tam Lang. Tôi Kéo Xe, Sài Gòn 1969, nhà xuất bản Xuân Thu tái bản, Hoa Kỳ. Thanh-Nghị, Hà-Nội, 1941-1945.  

Trần Trọng Kim. Việt-Nam Sử-Lược, Sống Mới tái bản, Hoa Kỳ 1978.

52 THUẾ THUỘC ĐỊA VÀ ẢNH HƯỞNG TRONG XÃ HỘI – © 2024 NGÔ THỊ QUÝ LINH 

Tri-Tân, Hà-Nội, 1941-1945.  

Văn-Hóa Nguyệt-san Bộ mới,1955-1974. Nha Văn-Hóa Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục (Việt Nam  Cộng Hòa), Sài Gòn.  

*

CHÂN THÀNH GHI CÔNG VÀ TRI ÂN 

Xin chân thành ghi công và tri ân tất cả các học giả, những nhà biên khảo, các nhà nhiếp  ảnh đã dành tâm huy ết, công sức để thu thập dữ kiện, hoàn thành các công trình biên soạn,  những hình ảnh quý báu và tài liệu phổ biến trên internet cho chúng tôi, những người đi sau, học  hỏi, mở mang kiến thức để có thể hoàn thành bài viết này. 

RECOGNITION and APPRECIATION 

We appreciate all authors, researchers, photographers who dedicated their time and  efforts to compile valuable books, articles, to capture unforgettable scenes of our homeland  Vietnam and generously posted their work on the internet for public use. 

In recognition of their noble sacrifices, all their intellectual properties used in this  presentation are for education and preservation of Vietnamese heritage and for honoring their  invaluable contributions to the knowledge of humankind.  

Notion: Information from this source is evidence-based and objective, and without  commercial influence. 

This is an open-access article distributed under the terms of the Creative Commons  Attribution License, which permits unrestricted use, distribution, and reproduction in any  medium, provided the original author and source are credited. 

FAIR USE NOTICE: This essay contains copyrighted material the use of which has not always  been specifically authorized by the copyright owner. We are making such material available in  our efforts to advance understanding of issues of cultural and humanitarian significance. We  believe this constitutes a ‘fair use’ of any such copyrighted material as provided for in section 107  of the US Copyright Law. In accordance with Title 17 U.S.C. Section 107, the material in this  essay is distributed without profit to those who have expressed a prior interest in receiving the  included information for research and educational purposes.  

If you wish to use copyrighted material from this essay for purposes of your own that go  beyond “fair use”, you must obtain permission from the copyright owner. 

©2024 by Quy Linh Thi Ngo

NHÀ XUẤT BẢN Ý LINH 

www.ylinhpublishing.weebly.com

 

Continue Reading

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ