Connect with us

Lịch sử Việt-Mỹ

Phụ lục Tư liệu Đại Việt Duy Dân Đảng, Phụ lục I: Tiểu sử Lý Đông A

Nguyễn Mạnh Hùng

Published on

Nguyễn Mạnh Hùng 

Mục lục 

Lời nói đầu: Đảng phái quốc gia Việt Nam, 1945-1954 – Lời kể của nhân chứng

“Chúng tôi không có tham vọng viết lịch sử các đảng phái Quốc Gia trong những ngày tháng 8/1945, mà chỉ cung cấp những tài liệu thô (raw material), qua lời nói của các nhân vật liên hệ, để các nhà nghiên cứu tự mình đánh giá, bổ túc, và đào sâu thêm hầu trả lời mấy câu hỏi lớn liên quan đến cuộc cách mạng tháng 8/1945. 

Trong tập tài liệu này, chúng tôi chỉ làm công việc ghi lại nguyên văn và tóm tắt những lời của chứng nhân. Chúng tôi tôn trọng người được phỏng vấn và không làm việc phối kiểm tính xác thực (fact check) của những tuyên bố của họ.”

(Trích Lời Nói Đầu, Nguyễn Mạnh Hùng)

Quyển I: Đại Việt Quốc dân Đảng 

Quyển II. Việt Nam Quốc Dân Đảng

Quyển III. Đại Việt Duy Dân Đảng

Phụ lục Tư liệu Đại Việt Duy Dân Đảng

Phụ Lục I

TIỂU SỬ ĐẢNG TRƯỞNG
Thái Dịch Lý Đông Á

Trước Khi Hoạt Động

  • Lý Đông A tên thật là Nguyễn Hữu Thanh [1], hiệu Thái Dịch [2] [3], sinh năm 1920 [4] tại làng Bối Cầu, xã Yên Tập, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
  • Lúc 7 tuổi, gia đình gửi vào sống trong chùa Phủ Lý Nhân.
  • Năm 14 tuổi, thi đậu Sơ học Pháp Việt [5].
  • Ra khỏi chùa, Lý Đông A (LĐA), lúc này vẫn mang tên Nguyễn Hữu Thanh (cho đến khi sang Tàu hoạt động mới lấy tên Lý Đông A), đi Hà Nội tá túc trong Chùa Quán Sứ [6].  Cậu tự học tiếng Pháp, tiếng Anh, đọc sách của Thư viện Quốc Gia và Thư viện Viễn Đông Bác Cổ. Cậu Thanh muốn đọc sách tại Thư viện Viễn Đông Bác Cổ nhưng không có cách nào mượn được, cứ lân la trước cổng.  Một hôm cậu gặp Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ trong đó ra, bèn nhờ bác sĩ mượn dùm. Tuy ngạc nhiên nhưng ông Chữ cũng đứng tên mượn giúp.  Cậu Thanh đem về nhà một đống sách, nhiều cuốn thuộc loại chuyên môn của bậc đại học mà cậu đọc rất nhanh rồi trả lại thư viện.  Ông Chữ đã tìm cách thử xem cậu có “đọc và hiểu” hay không? Bác sĩ Chữ hỏi tới đâu, cậu Thanh không những trả lời thông suốt tới đó mà còn đưa ra những nhận xét riêng rất độc đáo!
  • Rằm tháng Giêng 1936, cậu được nhà cách mạng Hải Kình đưa đi Huế thăm cụ Phan Bội Châu, gặp Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, ông Lê Quang Oánh (sau làm Linh mục, cho biết cuộc gặp gỡ này).  Ngoài ra còn có các ông Lê Toàn và Nguyễn Văn Phất cũng đến thăm cụ Phan.  Cậu ở lại đó 25 ngày, được cụ Phan giảng dậy Kinh Dịch, triết học Duy vật Mã Khắc Tư (K. Marx), Lư Thoa (J.J. Rousseau), Mạnh Ðức Tư Cưu (Montesquieu).  Cụ còn truyền cho cậu kinh nghiệm hơn 20 năm hoạt động cách mạng của cụ.

Hoạt Động Giai Đoạn Đầu Tại Việt Nam

  • 1936 – 1937: Trở lại Hà Nội – Hải Phòng.
  • 1937 – 1939: Rời Hải Phòng lên núi Yên Tử, bắt đầu sơ thảo về hệ tư tưởng Thắng Nghĩa và Việt Duy Dân Quốc Sách Đại Cương Thảo Án Toàn Pho. Trong tài liệu có tên Giới Thiệu, ngay câu mở đầu, Lý Đông A viết: “Ta sơ thảo bộ chủ nghĩa này năm 1937, tu chỉnh và hoàn tất nó ở xứ người” (LĐA, Giới Thiệu). Ông cũng lập Đảng Đại Việt Duy Dân tại núi Yên Tử.  Tiểu tổ hạch tâm đầu tiên họp ngày 15/9/1937.  LĐA “đứng ra tuyên thệ chịu trách nhiệm lãnh đạo Đảng Duy Dân“, lấy bí danh là Thuần.  Các ủy viên khai sáng ngày nay đã khuất, như Tư Long, Thái Kim, Việt Bằng, Hoài Nam, Đỗ Khuê.  Ông Nguyễn Duy Mỹ tức Tư Long bị Việt Minh ám sát tại ấp Thái Hà tháng Tư năm 1945; ông Việt Bằng bị giết ở Cao Bằng; cụ đồ Khuê chết bệnh năm 1946.
  • 9.1940 – 12.1940: Theo sự dặn dò của cụ Phan Bội Châu, LĐA lên Lạng Sơn và được chỉ định làm Ủy viên Chính trị cho Kiến Quốc Quân của Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội do Trần Trung Lập làm Tổng tư lệnh. Sau khi lực lượng Kiến Quốc Quân khởi nghĩa đánh vào Lạng Sơn ngày 22.9.1940 bị tan vỡ, một số binh sĩ vượt biên giới tập trung bên trên Đông Hưng dưới sự chỉ huy của Vi Văn Lưu, một số khác tập hợp tại Liễu Châu dưới sự chỉ huy của LĐA, đây là bộ phận quân sự của Đại Việt Duy Dân Đảng [7].

Hoạt Động Tại Hoa Nam

  • 1941–1942: Bị Tưởng Giới Thạch bắt giam một thời gian cùng nhiều nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại Hoa Nam lúc đó. Lý Đông A ở tù chung với Nguyễn Tường Tam, ông Lý thuyết phục ông Nguyễn Tường Tam chấp nhận học thuyết Duy Dân theo di chỉ của cụ Phan Bội Châu với câu nói: “Dân chẳng duy tâm, dân chẳng duy vật, dân chỉ duy dân”.
  • 1942: Đồng Minh can thiệp với Tưởng Giới Thạch để thả những nhà cách mạng Việt Nam tại Hoa Nam đang bị giam giữ. Ra tù, LĐA thuyết phục các phe quốc gia tại Hoa Nam thống nhất trong một mặt trận chung, lấy Duy Dân làm hệ tư tưởng nhưng phân thân thành nhiều tổ chức để tránh Pháp và cộng sản (CS) tiêu diệt.  Ông Nguyễn Tường Tam tự tay viết “Ký Trình” (Báo Cáo – Cống Hiến Ý Kiến – Yêu Cầu[8] có bốn người ký tên là Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Lý Đông A. Ký xong, ông Nguyễn Tường Tam giao cho LĐA mang về Việt Nam đưa ông Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo) tìm ông Trương Tử Anh để ký tên vào, nhưng không tìm được nên chỉ có đại diện ông Trương Tử Anh ký cho đủ năm chữ ký.  Ông Nguyễn Tường Long giao cho ông Như Phong Lê Văn Tiến, bí thư của Nguyễn Tường Long giữ.  Khi di cư vào Nam năm 1954, ông Lê Văn Tiến đem theo và cất giữ cẩn thận. Trước 30.4.1975, Nguyễn Tường Thiết, con ông Nguyễn Tường Tam đến chào để di tản, ông Lê Văn Tiến đưa bản Ký Trình cho Nguyễn Tường Thiết mang đi.  Hiện nay bản này được giữ trên bàn thờ ông Nguyễn Tường Tam tại nhà ông Nguyễn Tường Thiết ở Seattle, Washington.

Hoạt Động Khi Trở Về Việt Nam

  • 1.1.1943: Ra mắt Tuyên Ngôn Thành Lập Tổng Đảng Bộ Đảng Đại Việt Duy Dân tại Hoà Bình.
  • 1945: Thành lập trường đào tạo cán bộ và chiến khu Nga My (Ninh Bình), tức Làng Mơ với khoảng hai trăm người. Việt Minh Cộng Sản cho quân đến bao vây và đánh chiếm đồi ngay ngày 2 tháng 9, trường huấn luyện tan vỡ, rất nhiều đảng viên đã hy sinh [9].
  • Đầu 1946: Phe quân sự của Đảng Đại Việt Duy Dân chủ trương lập chiến khu tại Hòa Bình để vừa đánh CS, vừa đánh Pháp.  Theo ông Thái Hùng B, một đảng viên Duy Dân cho biết thì ngày 12.2.1946, Hiệu Triệu Kháng Chiến đã được soạn thảo tại chiến khu này.  Tháng 3 năm 1946, tàn quân của Pháp vận động từ trong Nam ra ngoài Bắc thay thế quân đội Tàu trong việc giải giới quân đội Nhật Bản thất trận. Việt Minh và Pháp ký Hiệp Định Sơ Bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, hằng ngày cùng đi tuần tiễu chung trên xe Liên Kiểm có cắm cờ Pháp và cờ Việt Minh.  Gần cuối tháng 2 năm 1946, do sáng kiến của hai nhân vật Duy Dân là ông Thái Lăng Nghiêm (trong Tham Mưu Biệt Bộ [10] của Tổng Đảng Bộ Duy Dân) và ông Đức Kính (sĩ quan tốt nghiệp trường Hoàng Phố ở hải ngoại về nước) lấy quyết định khởi nghĩa tại Hòa Bình, từ vùng đất của họ Đinh để giành lại chính nghĩa kháng Pháp. Khi biết tin, ông Lý Đông A không cản được, phải từ Hải Dương vội vã vào Hòa Bình để quan sát tình hình.
  • 04.1946: Một cuộc đụng độ giữa quân Duy Dân dưới sự chỉ huy của hai ông Thái Lăng Nghiêm và Đức Kính với quân Việt Minh đã xảy ra tại Hòa Bình.  Trong cuộc giao tranh, ông Lý Đông A ở đoạn hậu, không lâm trận.  Cuộc nổi dậy bị quân Việt Minh dẹp tan.  Có hai nguồn tin sau đó: (1) Lý Đông A bị giết tại trận tiền, (2) Lý Đông A đã rút khỏi và không rõ đi đâu.  Cho đến nay, không ai rõ sự thực ra sao, còn Lý Đông A thì trong tình trạng thất tung (theo báo cáo của đảng bộ Hòa Bình thuộc Đảng Cộng Sản Việt Nam, tháng 4.1946, chính quyền Việt Minh Cộng Sản đem quân đánh tan căn cứ này [11], nhiều đảng viên Duy Dân tử trận.  Báo cáo này tường trình là đã giết được một người có tên Trần Khắc Tường mà họ lầm tưởng là Lý Đông A.  Báo cáo cũng tiết lộ tháng 4.1947, các cán bộ, đảng viên Duy Dân bị địch bắt giam đã phá nhà giam giải thoát cho hơn hai trăm tù nhân).
  • Trước đó, ông Lý đã ra lệnh giải tán Tổng Đảng Bộ, chủ yếu là để bảo toàn chủ lực.  LĐA ra lệnh cho toàn bộ đảng viên “chìm vào đáy tầng”, thực hiện công việc “xây dựng chủ lực dân tộc”.  Cụ Thái Nhân, Cán Sự Trưởng Cán Sự Bộ 002 [12], đã được LĐA cho biết tin giải tán này từ mùa hè 1945.

Cước chú

[1] “Chữ Lý Đông A, ghép bởi hai chữ Lý và Trần (Đông A) là hai triều đại đã đưa nước Việt lên hàng cường quốc ở Đông Nam Á, cho thấy chí nguyện của Ông không phải chỉ là khôi phục lại nền độc lập, mà còn là khơi lại mạch sống của dân tộc đã bị vùi lấp từ sau cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh.” Phạm Khắc Hàm (1998). Triết Lý Lý Đông A. Diễn Đàn Địa Lý Nhân Văn Việt Nam, trang 369.

Một số nguồn tin trên báo chí Việt ngữ ở hải ngoại được Tiến sĩ Phạm Khắc Hàm ghi lại trong cuốn Triết Lý Lý Đông A (tr. 367-370), cho rằng Lý Đông A tên là Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Duy Thanh hay Nguyễn Ngọc Thanh và/hay sinh năm 1921.

  1. Tạp chí Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo phát hành ngày 13/2/1997, trang A2, trong bài “Năm Mới Nói Chuyện Cũ, Hội Đầu Pháo”, ông Vũ Trác viết: “Lý Đông A tên thật là Nguyễn Văn Thanh, là một trong bốn người đã tổ chức vụ khởi nghĩa chống Pháp tại Lạng Sơn (tháng 9-10, 1940), với tư cách Chính Ủy Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội…”
  2. Tuần báo Chính Luận số 48 (10/10-17/10/1997) trang 32, trong bài “A.B.C Nhân Chủ”, Nhóm Nghiên Cứu Nhân Chủ Seattle, Washington cho biết: “Thái Dịch sinh năm 1921… Năm 1935, khi 14 tuổi, Thái Dịch hỏi cụ Đồ Đạo về ‘Thiên, Địa, Nhân’ và thắc mắc: con người đứng ở chỗ nào… Tới năm sau (1936) khi vào Huế để học hỏi cụ Phan Bội Châu, cậu Nguyễn Duy Thanh… đã được cụ Phan giảng dậy về Khổng học và Dịch Lý…”
  3. Người Việt số Xuân Mậu Dần 1998, trang 20-24, trong bài “Một Thoáng Mong Manh Còn Nhớ Mãi”, ông Lý Thái Thư, một nhà cách mạng trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH) cho rằng Nguyễn Ngọc Thanh “là tên thực của lãnh tụ Duy Dân Đảng Lý Đông A lúc bấy giờ”.  Ông còn kể rằng “năm 1943, Lý tiên sinh có tham dự một hội nghị của VNCMĐMH do ông Trương Bội Công và cụ Nguyễn Hải Thần triệu tập để quyết định xin chính phủ Tưởng Giới Thạch tha mạng cho hai người VN [bài báo ghi tên hai người này là Lý Thụy và Đinh Chương Dương] bị bắt vì tội làm gián điệp cho Nga hay Nhật, chưa rõ, và đang bị giam trong phòng tử tội, trong lòng núi Độc Đăng ở Liễu Châu. Sau khi được VNCMĐMH cứu mạng, hai người xin gia nhập và được làm việc tại Tổng Hội”.  Cuối 1943, Lý Thụy và Đinh Chương Dương “tình nguyện xin về nước để bí mật đặt cơ sở cho Cách Mạng và được chấp thuận”.  Cho đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện ở Ba Đình đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, nhóm ông Lý Thái Thư lúc ấy còn ở Côn Minh, “mới biết Lý Thụy và Hồ Chí Minh chỉ là một”.
  4. Nhật báo Thời Luận số Chủ Nhật (14/9/1997), Giáo sư Lâm Lễ Trinh trong bài “Trần Trung Dung, nhà báo không bẻ cong ngòi bút” thuật lại lời ông Trần Trung Dung: “… đến nay các giai thoại bao quanh nhà triết gia cách mạng kiêm thi hào này vẫn chưa sáng tỏ.  Lý Đông A tên thật là Nguyễn Hữu Thanh, sinh năm 1920 tại Hà Nam, đã viết bộ sách ‘Đại Việt Duy Dân Đại Cương Thảo Án Quốc Sách Toàn Pho’ và sáng lập ngày 1 tháng 1, 1943 Đại Việt Duy Dân Đảng. Triết thuyết Lý Đông A chủ trương triển khai văn hoá và truyền thống dân tộc, lấy con người làm trục, xét trên ba bình diện: vũ trụ, nhân loại và dân tộc…”

[2] Lý Đông A chọn hiệu “Thái Dịch” với chữ đầu là “Thái” để tưởng nhớ đến chốn cũ của tổ tiên nòi Việt là Thái Sơn (tây bắc nước Tàu) như trong câu ca dao Công cha như núi Thái Sơn.  Ngoài ra, tương truyền ông tinh thông Phật học, Sử học, Dịch học và phong thuỷ địa lý; phải chăng chữ “Dịch” trong hiệu của ông mang ý nghĩa này? Các đảng viên Duy Dân đều lấy đảng danh với chữ đầu là “Thái”.

[3] Ở cuối một số tài liệu do ông biên soạn, chúng tôi thấy ghi “X.Y. Lý Đông A” hoặc “X.Y. Thái Dịch Lý Đông A”.  Theo cụ Thái Nhân, sau khi Lý Đông A đưa một tài liệu cho cụ hay người khác sao chép (ông gọi là ấn bản lần thứ nhất), Lý tiên sinh thu lại bản chính và đánh dấu “X.Y.” hay “XY” vào cuối bản copy, như chữ ký xác nhận đó là tài liệu “gốc”, sao y bản chánh, mà ông gọi là “ấn bản thứ nhất”.  Bản này sau đó được các đảng viên thuộc các Cán Sự bộ thay nhau chép lại để làm tài liệu học tập.  Ngoài ra, bên dưới tên tác giả ở cuối tài liệu, ông thường viết năm hoàn thành bằng “Việt lịch”.  Ví dụ: 4824 T.V. (Tuổi Việt), tức năm 1945.

[4] Tiến sĩ Phạm Khắc Hàm tường thuật trong cuốn Triết Lý Lý Đông A (trang 368), trong một cuộc điện đàm, ông Nguyễn Tử Đóa “xác định: Ô. Lý Đông A sinh ngày 25/11 năm Canh Thân tức 1921, tên thực là Nguyễn Hữu Thanh…”

Theo cụ Lang Nhân ghi lại thì ngày tháng năm sinh của Lý Đông A là:
Âm lịch                             Dương lịch
Năm Canh Thân                    1920
Tháng Mậu Tý (11)                      12
Ngày Nhâm Dần  (01)                        10
Giờ Đinh Mùi                      13:00-15:00

[5] Trong cuốn Hồi Ký Một Đời Người (HKMĐN), tập I (tr. 131), tác giả Phạm Ngọc Lũy viết, theo ông Nguyễn Ngọc Doãn, “ông Lý Đông A tuổi Thân, sinh năm 1920, chỉ mới học xong lớp nhất, theo học thêm hai ba năm bậc thành chung, nhà lãnh tụ tài ba này đã tinh thông kim cổ. Những tập Thiết Giáo, Huyết Hoa, Duy Nhân Cương Thường, Bình Sản Kinh Tế, Cơ Năng Hiến Pháp, tập thơ Đạo Trường Ngâm đã lôi cuốn cả một thế hệ thanh niên chỉ biết tin vào sức mình để cứu nước.  Nguyễn Sỹ Huân, làm bí thư cho cụ Nguyễn Hải Thần, hỏi cụ đã gặp lãnh tụ Duy Dân bao giờ chưa thì cụ Nguyễn trả lời: ‘Có gặp ở Liễu Châu, Lý Đông A là một thanh niên xuất chúng, tài năng kỳ lạ’”.

Theo lời kể, “ông được linh quang thần nhập thể vào lúc 16 tuổi, nên được khai mở trí tuệ: đọc rất mau, thâu tóm tư tưởng rất lẹ.”

[6] Theo một nguồn tin khác (Trần Thanh Hiệp) thì khi lên Hà Nội, LĐA tá túc tại nhà ông Dương Thái Ban.  Có người nhận xét lúc đó cậu Thanh trông như “một chú tiểu”, dù không xuống tóc đi tu.  Sau này, nhiều vị sư tăng còn nhớ chuyện về LĐA, nhất là về sự thông tuệ xuất chúng của chú tiểu Thanh”.  Ông Thái Thế Trịnh Ngọc Bằng, người từng gặp Thầy Thích Tâm Châu và nghe Thầy “ca tụng LĐA hết lời”.

[7] Minh Vũ Hồ Văn Châm, ‘Chuyện Ông Già Sĩ Quan Tình Báo’ (12/1998), Hội Quán Phi Dũng, truy cập ngày 10 tháng Hai năm 2019, 

https://hoiquanphidung.com/showthread.php?26180.

Ngoài ra, một toán quân khác của Phục Quốc Quân đã đồn trú tại Đồng Đăng dưới sự chỉ huy của Nông Quốc Long vẫn còn tồn tại cho đến năm 1946, dù bị Pháp và CSVN tấn công nhiều lần nhưng đều thất bại.

Tiến sĩ Phạm Khắc Hàm ghi lại trong cuốn Triết Lý Lý Đông A (tr. 370), theo lời cụ Nguyễn Tiến Đại, một đồng chí của Lý Đông A trong buổi thảo luận về “Triết Lý Đông A” tại Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) ở Garden Grove năm 1998, cho biết: “khi tới Trung Hoa, các nhà CM (Cách Mạng-ghi chú của HHTN) bị giải giới và bị hỏi ‘Theo đảng nào? Cương lĩnh ra sao?’ Các nhà CM không biết trả lời ra sao, vì Phục Quốc Quân chỉ là tên của đoàn quân phục quốc chứ không có Đảng Phục Quốc, cũng như không có cương lĩnh nào cả.  Lý tiên sinh phải thảo ngay một cương lĩnh cho đoàn quân CM!”

[8] Đây là văn kiện ghi nhận sự kết hợp các lực lượng của phe Quốc gia.  Sau này, khi Nguyễn Tường Tam tham gia chính phủ liên hiệp của Hồ Chí Minh, theo một nguồn tin kể lại (Thái Nhân), Lý Đông A đã viết thư yêu cầu Nguyễn Tường Tam rút khỏi chính phủ liên hiệp. Trong thời kỳ kháng chiến, trong cuốn HKMĐN, tập I (tr. 169), thì “ba nhân vật bị Việt Minh hạ nhục hơn cả là Bảo Đại, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam bằng những biểu ngữ kết tội Việt gian, phản động. Ba vị đã được dựng thành những hình nộm ở khắp nơi để khách qua đường sỉ vả”.

[9] Theo hồi ký của ông Phạm Ngọc Lũy thì Việt Minh đánh chiếm đồi Nga Mi ngay ngày 2.9.1945, tức trường huấn luyện được thành lập trước ngày này năm 1945. HHTN chưa tìm được thời điểm chính xác.  Trên trang Tỉnh đoàn Ninh Bình của chính quyền CSVN, tại Chương II: Thanh niên Ninh Bình tham gia bảo vệ, củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954), số chiến sĩ Duy Dân bị bắt và bị giết tại mặt trận Nga Mi là 20 người.  Theo tài liệu “Đảng sử Phụ lược Đại Việt Duy Dân Cách Mạng Đảng” của ông Vũ Hoàn Thái Tuấn A hoàn thành vào June 2007, trước khi nổ ra trận Nga Mi, 261 chiến sĩ Duy Dân đã bị phục kích giết chết tại khúc sông Gián Khẩu (Gián Khuất) trong lúc di chuyển trên sông Đáy tiếp viện cho chiến khu Nga Mi.  Cũng theo trang Tỉnh đoàn Ninh Bình nói trên thì trận Hòa Bình xảy ra vào ngày 26.8.1945.

[10] “Tham Mưu Biệt Bộ” là tên gọi của ban tham mưu trực thuộc Tổng Đảng Bộ.  Các Cán Sự Bộ cũng có ban tham mưu của mình lo việc điều hành và phát triển tổ chức.  Ngoài Tham Mưu Biệt Bộ còn có “Xích Long Vệ”, cũng được điều hành trực tiếp từ Tổng Đảng Bộ, là cơ quan đặc biệt bí mật, chuyên lo về an ninh, tình báo cả trong lẫn ngoài tổ chức mà không ai biết nhân sự phụ trách là những ai.  Có lẽ giai đoạn đầu còn quá nhiều khó khăn và cũng không đủ thời gian để có thể kiện toàn cơ cấu tổ chức, nên không có tài liệu nào ghi nhận hoạt động của các cơ quan này (HHTN).

[11] Một đường link khác dưới đây (Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1929 – 2010), Chương 3) hiện không truy cập được – (12/2019) – tuy chúng tôi còn giữ được bài này –  nói về việc CS đánh chiếm căn cứ Hoà Bình giữa năm 1946.  Tài liệu đó cho rằng Lý Đông A là Trần Khắc Tường (Trang Wikipedia tiếng Việt viết về Lý Đông A có lẽ cũng lấy tin từ trang của đảng bộ CS tình Hòa Bình nên cũng ghi người bị giết tên Trần Khắc Tường – truy cập ngày 19-12-2020).  Điều này chứng tỏ CSVN không biết Lý Đông A là ai và có thể ông không bị giết dưới tay họ và vẫn còn sống sau đó.  Ngoài ra, tương truyền ông hóa trang rất tài tình, trong cặp táp lúc nào cũng có sẵn một số dụng cụ hóa trang. Trong điện thư ngày 26 tháng Tư năm 2020 gửi Học Hội Thắng Nghĩa, ông Thái Thế viết:

Cụ Nguyễn Hữu Loan anh cả của LĐA.  Cụ Loan chỉ kể vài chuyện về LĐA khi còn nhỏ, cụ Loan chỉ lớn hơn ông em 6 tuổi! và cho biết quê của LĐA là “làng Yên Tập”, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam gần Yên Đổ chứ không phải cùng làng với Nguyễn Khuyến! Từ Khi LĐA đi Hà Nội thì cụ Loan không biết gì về việc làm của em mình!

Người thứ 2 là “thầy dậy” của tôi, Cán Sự Trưởng Cán Sự Bộ 002, cụ Thái Nhân (thân sinh của anh Nhiên Hòa).  Cụ Thái Nhân cho biết về “đặc tính” của LĐA.  Đặc biệt là “rất thận trọng”.  Thời buổi đó mật thám Pháp và Việt gian tay sai nhan nhản khắp nơi, nếu sơ hở là bị bắt ngay! LĐA có tài “hóa trang” nên “biến hóa” khôn lường! Khi thì làm “anh Khóa… học trò”, khi thì làm “người nhà quê”, có lúc lại làm “nhà sư trẻ”…  và có nghiêm lệnh “không bao giờ được chụp ảnh”, vẽ chân dung… hay ghi chú về bản đồ đường đi… LĐA đến và đi đều “xuất kỳ bất ý” có nghĩa là không ai biết trước! Và cụ [Thái] Nhân bật cười khi tôi hỏi về “hình chụp LĐA!” Làm gì có mà hỏi!

Sự thận trọng còn đến mức “các thủ bút” chữ viết tay của LĐA đều được “lấy lại” sau khi sao chép xong Tài Liệu!

Tôi lại được một vị cao cấp khác của DD, bác Đức Bình [ĐB], Cán Sự Bộ 008 thuộc Thái Bình, vào miền Nam bác ĐB về vùng Long Xuyên mở trường dậy học, làm Hiệu Trưởng trường Kinh Dương quận Chợ Mới An Giang.  Bác Bình cũng cho tôi biết những điều mà cụ Thái Nhân đã dậy.”

http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-su-dang/books-2928201511520246/index-592820151148114610.html

[12] Hệ thống tổ chức của Đảng Đại Việt Duy Dân thời Lý Đông A còn hiện tiền gồm có: thấp nhất là Tiểu Tổ, gồm từ 3 đến 5 hoặc 7 đảng viên.  Đến người thứ 8 thì tách ra thành hai tiểu tổ.  Từ 3 đến 5 Tiểu Tổ họp lại thành Chi Bộ.  Nhiều Chi Bộ thì thành Cán Sự Bộ.  Cán Sự Bộ gồm nhiều Chi Bộ ở cùng một địa phương, vì thế Cán Sự Bộ (CSB) còn mang tính cách khu vực, địa phương, có thể coi như “đảng bộ địa phương”.  Trên cùng là Tổng Đảng Bộ.

Đứng đầu Tiểu Tổ là Tổ Trưởng; cấp Chi Bộ là Chi Bộ Trưởng; cấp Cán Sự Bộ là Cán Sự Trưởng.  Cao cấp nhất là Thư Ký Trưởng. Lý Đông A là Thư Ký Trưởng của Đảng Đại Việt Duy Dân.

Các tổ viên chỉ biết tổ trưởng và biết nhau chứ không được biết thành viên các tiểu tổ khác. “Tiểu Tổ tam Thanh” là tiểu tổ đầu tiên của Duy Dân: ngoài Nguyễn Hữu Thanh, hai tổ viên khác cũng tên Thanh, được phân biệt bằng Thanh A, Thanh B và Thanh C.  Chi bộ đầu tiên của Duy Dân là chi bộ 1A, thường gọi là “oong A”, có cụ bà Đức Thụ, ông Trần Bá Lân (con cụ Trần Đăng Long).

Cán Sự Bộ 001 là cán sự bộ Thủ đô Hà Nội, bao gồm sinh viên và giới trí thức. CSB 002 là ở Hà Đông… CSB 008 thuộc tỉnh Thái Bình.  Khi có cuộc di cư vào Nam năm 1954, tức sau khi đã có lệnh giải tán Tổng Đảng Bộ, các Cán Sự Bộ tự quyết định riêng theo địa phương chứ không có lệnh chung.  Vì thế nhiều vùng di cư vào Nam, có vùng ở lại miền Bắc “chìm vào đáy tầng”, chấp nhận sống dưới chế độ cộng sản.

Nguồn: tieu-su | THẮNG NGHĨA (thangnghia.org)



Continue Reading

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ